Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2020

CÁC THẦY CÔ GIẢNG DẠY SAU BẬC ĐẠI HỌC VÀ NƯỚC NGOÀI

 TRƯỜNG QUỐC TẾ CIMPA

Pháp

DEAA2001

Nhật

ISO

MINIMBA

1. GS.TS. Nguyễn Văn Sự

2. PGS.TS. Đỗ Tiên Long

3. TS. Lợi

4. PGS.TS. Hằng - Học viên Báo chí

5. 

CÁC KHÓA DINH DƯỠNG

1. PGS.TS. Lê Bạch Mai

2. PGS.TS. Nguyễn Thị Lâm

3. TS. Huỳnh Nam Phương

4. ThS. Dzoãn Thị Tường Vy

5. TS. Nguyễn Đỗ Huy

6. ThS. Trần Quang Hào

7. ThS. Ngô Quốc Hùng

8. ThS. Phan Anh Tuấn

9. ThS. Lâm Thị Cát Tiên

10. TS. 

Nước ngoài

1. TS Sam Rehnborg

2. TS Steve Missler 

2. 

CHUYÊN ĐỀ KINH DOANH

1. Mỹ: 

Doug Devos

Stevan Andel

2. Đài Loan: 

FC Hứa Húc Thăng - Đài Loan

Tạ Kiến Tông

Cao Từ Diệu

Dương Trường Đông

Thái Minh Huân

Trương Trung Hào

3. Hàn Quốc

Richmond

Yoon

Mr&Mrs LeoNard Kim

Minki Kim

4. Nhật Bản

5. Đức

Eva

6. Trung Quốc

Vương Tôn Binh & Hồng Lệ Quyên

Châu Á Tinh & Viên Vi Quần

Thẩm Phát Hưng & Thẩm Vĩnh Tiên

7. HongKong

Alita Ngô Thái Vân & Phúc Nam Sinh 

Lâm Quốc Trí & Lâm Ái Tịnh


8. Makau

Trương Bồi Quang

Tsui Kit


9. Malaysia

Mr&Mrs Sonny Ho & Gwatt Ho

Mr&Mrs Vương Thọ Phương

Marcel

KhooChongKok

Steven Lim


10. Indonesia

Co Co

Kenvin


11. Philipines

12. Thái Lan

Victor

Natawatt

Chachai

Vonchai

 Ninoy

Annanong

Narus

Partrick


13. Australia


THIỀN VÀ PHẬT PHÁP

1. Thiền sư Nguyên Tuệ - Chùa Bửu Quang - Thủ Đức - HCM

CÁC THẦY CÔ GIẢNG DẠY BẬC THẠC SĨ ĐHKH XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN- ĐHQGHN

 Giai đoạn chuyển đổi

1. PGS. TS. Trần Thị Minh Đức - Tâm lý

2. PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Hoa - Xã hội học

3. PGS. TS. Phạm Ngọc Thanh - KHQL

4. PGS. TS. Vũ Cao Đàm - Khoa học luận

5. PGS. TS. Trần Văn Hải - Sở hữu Trí tuệ

6. ThS. Nguyễn Văn Bình - Triết

7. Cô Tú - Tiếng Anh

8. PGS. TS. Nguyễn Hồi Loan - Tâm lý

9. TS. Trần Ngọc Liêu - Quản lý


Giai đoạn thạc sĩ

1. PGS.TS. Phạm Ngọc Thanh

2. TPGS.TS. Trần Văn Hải

3. PGS.TS. Vũ Cao Đàm

4. PGS.TS. Phạm Huy Tiến

5. TS. Hồ Ngọc Luật

6. TS. Nguyễn Văn Học, hướng dẫn

CÁC THẦY CÔ GIẢNG DẠY BẬC ĐẠI HỌC KH TỰ NHIÊN, ĐHQGHN

Chủ nhiệm lớp

1. TS. Lê Đình Định - Chủ nhiệm lớp, giai đoạn 1

2. TS. Nguyễn Viêt Triều Tiên, Chủ nhiệm lớp, giai đoạn 2

CÁC GIẢNG VIÊN ĐÃ GIẢNG DẠY

1.ThS.Lê Tuấn Hiệp BM. GDTC

2.ThS.Nguyễn Văn Hiệp BM. GDTC

3.ThS.Lê Thanh Thuỷ BM. GDTC

4.TS. Đỗ Quang Huy BM. GDTC

5.CN. Đặng Dương Đượm BM. Ngoại ngữ

6.CN. Ngô Anh Thơ BM. Ngoại ngữ

7.PGS.TS. Ngô Sỹ Lương K. Hoá học

8.GS.TS. Trần Tân Tiến K. KT-TV-HDH

9.PGS.TS. Lê Thị Thanh Bình K. Vật lý

10.GS.TSKH. Nguyễn Châu K. Vật lý

11.GS.TS. Nguyễn Hữu Đức K. Vật lý

12.PGS.TS. Bùi Văn Loát K. Vật lý

13.GS.TSKH. Nguyễn Hoàng Lương K. Vật lý

14.PGS.TS. Trần Thọ Châu K.Toán-Cơ-Tin học

15.GS.TS. Nguyễn Hữu Dư K.Toán-Cơ-Tin học

16.TS. Lê Đình Định K.Toán-Cơ-Tin học

17.PGS.TS. Đào Hữu Hồ K.Toán-Cơ-Tin học

18.PGS.TS. Trần Trọng Huệ K.Toán-Cơ-Tin học

19.ThS. Hoàng Quốc Hùng K.Toán-Cơ-Tin học

20.TS. Phạm Việt Hùng K.Toán-Cơ-Tin học

21.PGS.TS. Hoàng Đức Nguyên K.Toán-Cơ-Tin học

22.PGS.TS. Nguyễn Hữu Ngự K.Toán-Cơ-Tin học

23.TS. Lê Đình Phùng K.Toán-Cơ-Tin học

24.GS.TS. Đặng Huy Ruận K.Toán-Cơ-Tin học

25.PGS.TS. Nguyễn Thuỷ Thanh K.Toán-Cơ-Tin học

26.PGS.TS. Hoàng Chí Thành K.Toán-Cơ-Tin học

27.GS.TSKH. Phạm Ngọc Thao K.Toán-Cơ-Tin học

28.GS.TSKH. Đặng Hùng Thắng K.Toán-Cơ-Tin học

29.TS. Nguyễn Viết Triều Tiên K.Toán-Cơ-Tin học

30.GS.TSKH. Nguyễn Duy Tiến K.Toán-Cơ-Tin học

31.PGS.TS. Hoàng Quốc Toàn K.Toán-Cơ-Tin học

32.PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn TT ƯD Tin học

TRƯỜNG NGOÀI

1. PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, Khoa Tâm lý

2. PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan, Khoa Tâm lý

3. ThS. Nguyễn Văn Bình, Khoa Triết học

4. TS. Nguyễn Văn Vĩnh, Học viện chính trị

5. PGS.TS. Vũ Tiến Việt Học viên An ninh



CÁC THẦY CÔ DẠY CẤP 3 KIM ANH-SÓC SƠN-HÀ NỘI VÀ ĐH SƯ PHẠM HÀ NỘI 1&2

CÁC THẦY CÔ ĐÃ DẠY 

1. Thầy Nguyễn Tiến Dũng - Kim Anh - Chủ nhiệm, dạy Toán

2. Thầy No - Kim Anh - Dạy Hóa

3. Thầy Sình - Kim Hoa - Dạy Sử

4. Thầy Hội - Xuân Phương, dạy Kỹ thuật (đã mất)

5. Thầy Liên - Kim Anh - Dạy Địa

6. Thầy Doanh - Kim Anh - Dạy Lý

7. Thầy Quyết - Minh Phú - Dạy Lý

8. Cô Huyền - Phúc Yên - Dạy Địa

9. Cô Phúc - Kim Anh - dạy Văn

10. Cô Thức - Kim Anh - dạy Giáo dục công dân

11. Thầy Hùng - Đa Phúc - dạy Thể dục

12. Thầy Tụng - Giai lạc - dạy Thể dục

13. Thầy Nhận - Thôn đồng - dạy Hóa.

14. Cô Trúc - Tân Dân dạy Tiếng Anh

15. Thầy Đa - Kim Anh - Dạy Kỹ thuật

16. Thầy Vũ - Dạy kỹ thuật

17.  

CÁC THẦY CÔ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

1. Thầy Vạn dạy Toán

2. Thầy Hải dạy Hóa

3. Thầy Bằng dạy Hóa

4. Thầy Hải dạy Lý

CÁC THẦY CÔ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

1. Thầy Trịnh Tuân dạy Toán

2. Thầy Thuận dạy Lý

3. Thầy Năng dạy Hóa

4. Thầy Thành dạy Lý

CÁC THẦY CÔ DẠY CẤP 2 QUANG MINH-MÊ LINH - HÀ NỘI

 CẤP 2 - QUANG MINH - MỆ LINH - HÀ NỘI

1. Cô Thìn - Chủ nhiệm lớp 6&7, dạy Địa

3. Cô Nga - Gia Tân - Chủ nhiệm lớp 8, dạy Toán

4. Thầy Tự - Chủ nhiệm lớp 8&9, dạy Toán

5. Cô Tuệ - Gia Thượng - Môn Sinh, Hóa

6. Thầy An - Chi đông - Môn Toán

7. Thầy Suất - Gia thượng dạy Lý

8. Thầy Tam - Bảo Tháp dạy Lý

9. Thầy Lực - Bảo tháp dạy Hóa

10. Cô Hương - Gia Tân dạy Sinh lớp 7.

11. Thầy Luật - Giai Lạc dạy Thể dục

12. Cô Chính - Gia thượng dạy 

13. Thầy Đồng - Đại Thịnh dạy Văn

14. Cô Lan - Chi đông dạy Văn

CÁC THẦY CÔ DẠY CẤP 1-QUANG MINH-MÊ LINH - HÀ NỘI

 1. Cô Hưng - Giai Lạc: Dạy lớp 1

2. Cô Tân - Gia Thượng dạy lớp 2,3 sau đó cô nghỉ sinh

3. Cô Át - Gia Thượng dạy lớp 3,4,5

4. Cô Chuyên - Giai Lạc dạy tiếp lớp 5. 

CÁC THẦY CÔ ĐÃ GIẢNG DẠY

THÀNH KÍNH TRI ÂN CÁC THẦY CÔ ĐÃ TỪNG GIẢNG DẠY QUA CÁC THỜI KỲ

 CẤP 1 - QUANG MINH - MỆ LINH - HÀ NỘI

CẤP 2- QUANG MINH - MÊ LINH - HÀ NỘI

CẤP 3- KIM ANH - SÓC SƠN - HÀ NỘI VÀ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HN1, 2

ĐẠI HỌC - TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN, ĐHQGHN

THẠC SĨ - TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XH&NV, ĐHQGHN

GIAI ĐOẠN SAU ĐẠI HỌC


Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

MẸ

MẸ

Hôm nay là ngày rằm tháng Bảy. Theo truyền thống, mẹ thường làm bánh trưng hoặc bánh khoai và món tủ không bao giờ thiếu là chả đỗ xanh rán để thắp hương tổ tiên và làm rất nhiều món ăn truyền thống khác để đoàn tụ con cháu. Tính mẹ như vậy, lúc nào cũng phải đủ đầy mặc dù bây giờ con cháu đời sống vật chất đủ đầy không ăn uống là mấy. Năm nay là năm đầu tiên con gái ở nhà chơi với bà và các em qua đêm để ăn rằm tháng Bảy. Rằm tháng Bảy năm nay hội tụ đủ đầy cả chị gái, anh rể và 4 anh em trai và 3 nàng dâu cùng các cháu, chỉ thiếu cô dâu út mới sinh em bé đang về ngoại. 

Nhìn con cháu đủ đầy, mẹ rất vui. Chập chiều, lúc bất chợt bước chân xuống cầu thang, tôi thấy lưng còng xuống quá nhiều, 2 chân đã rất run vì bệnh khớp, tóc mẹ bạc nhiều, da đã đồi mồi, bất chợt nước mắt cứ trào ra khóe mắt. Sắp bước sang tuổi 70 nhưng mẹ đã già đi quá nhiều rồi. Năm nay cũng là năm thứ 24 bố đi xa bỏ lại mấy mẹ con tự lập, xoay vần giữa dòng chảy cuộc đời.

Rằm tháng Bảy năm nay trời không mưa. Tôi nhớ nhiều năm liền rằm hay mưa và chúng tôi cùng mẹ thu hoạch mùa khoai sọ và đàn vịt cũng đúng thời mới chéo cánh. Món đặc sản đầu mùa mẹ thường nấu cho ăn chính là canh khoai sọ với vịt chéo cánh. Cả nhà còn hoàn cảnh và đứa nào cũng tuổi lớn bữa nấu 6 bò gạo chỉ vươn vai là ăn hết veo, vét sạch đáy nồi. Ngày xưa nhà làm 1,6 mẫu ruộng với đủ các loại cây mùa nào thứ ấy, nuôi rất nhiều gà vịt, trâu và lợn vẫn không đủ ăn cho đến khi khoán ruộng. Tuổi thơ chúng tôi gắn với đồng ruộng lam lũ cùng mẹ từ gà gáy có hôm nửa đêm đến tối mịt. Mẹ quá vất vả toàn gánh lúa, gánh khoai trên 1 tạ xít tận mầu quang, nhảy duỵch qua các bờ mương và kĩu kịt ra chờ hàng chục cây số, tát nước ruộng cao, chính vì vậy mà khi về già mẹ gần như hỏng hết 2 khớp gối, khớp vai và còng cột sống.

Hồi mới lớn tôi nghe kể ngày nhỏ mẹ học rất giỏi, tốt nghiệp cấp 2 được chọn đi xuất khẩu nước ngoài nhưng vì nhà nghèo, ông ngoại mất sớm có 4 chị em gái bà ngoại tôi nói "ở nhà làm ruộng, đi gánh cứt" nên mẹ tôi đành gác mọi ước mơ tuổi trẻ để phụ bà và sau này đi dân công hỏa tuyến mới gặp bố tôi và xây dựng gia đình. Thời tuổi trẻ cũng vất vả vì ông bà nội sinh được 10 người con nhưng chỉ có 3 trai, bác cả đi chiến trường biệt tin tức chưa có con, bác thứ hai 17 tuổi chết vì bị bệnh, chỉ còn bố tôi và 7 cô gái mà bố lấy mẹ sinh anh trai bận đầu lòng lại mất mãi mới sinh được chị gái do vậy chưa có cháu đích tôn để nối dõi tông đường. Tôi nghe kể bà nội bắt bố phải bỏ mẹ để cưới vợ nữa cho đến khi nào phải có con trai. Đó là những năm tháng cơ cực của đời mẹ. Mới lập gia đình bố lại đi học xa, nhà ra ở riêng là bãi sình lầy, nhà tranh vách đất chỉ có một mình chèo trống. Rồi với sự may mắn và kiên trì bố mẹ tôi đã sinh liền 4 con trai. Ông bà nội đều ở cùng nhà tôi cho đến trước khi qua đời. Khi lớn lên, tôi rất thân với bà nội vì tôi là cháu trai lớn nhất của bà. Bác cả sau chiến tranh mới sinh được 3 người con 2 gái một trai. Tôi lớn lên chứng kiến bà nội và bác dâu cũng như mẹ tôi chưa bao giờ hợp nhau. Tôi  thường xuyên chứng kiến và cũng hiểu ít nhiều về chuyện "Mẹ chồng nàng dâu"  nhưng tôi giống bố là rất trung lập về cả 2 phía. Bố tôi là người gánh vác việc trong cả gia đình nhỏ và gia đình lớn và luôn là trọng tải giải quyết mọi việc. Chứng kiến cuộc sống gia đình lam lũ về thể xác và có nhiều lúc cũng rất căng thẳng về tinh thần, tôi cũng ít nhiều thấm thế nào là khổ. Về sau này, khi mẹ tôi đã có 4 nàng dâu, vợ tôi và các em dâu cũng đều rất tử tế, nhưng cho dù đời sống vật chất có lên cao đến bao nhiêu thì cảnh mẹ chồng nàng dâu có lẽ vô thủy kiếp cũng khó mà có thể hòa hợp nếu không có sự giác ngộ và thay đổi về nhận thức. Có thể do cuộc sống quá cực khổ nên mẹ tôi rất khó tính, làm bất kỳ việc gì cũng phải làm tốt nhất có thể, nghiêm khắc với bản thân và các con, nghỉ sao nói vậy và đôi khi nhiều người nói mẹ tôi rất "ác khẩu". Nhưng có lẽ vì vậy mà bố tôi mất sớm mà 4 anh em trai tôi không đứa nào mấy dạy, lêu lổng chơi bời hay cờ bạc rượu chè mà chỉ chí thú lao động và học hành và đứa nào cũng trưởng thành.

Tôi may mắn có được chút gen học hành của bố mẹ nên cũng sáng dạ trong chuyện học hành dù từ nhỏ không có điều kiện tới trường mẫu giáo và đến lớp 8 vẫn không được học thêm gì vẫn ở trong tốp khá, dù vào môi trường nào cũng chỉ thời gian rất ngắn là được chọn làm lớp trưởng, lớp phó hoặc bí thư, cán bộ đầu tàu do có chút khả năng ăn nói và đầu óc tổ chức và tác phong lãnh đạo. Có thể do lãnh đạo bọn đàn em từ nhỏ nên nó hình thành như vậy từ sớm. Bố mẹ lúc nào cũng cổ vũ học hành. Mẹ thường xuyên nói "cho dù có phải bán hết trâu bò lợn gà, bán hết thóc gạo kể cả nhà cửa miễn chúng mày còn sức học và còn muốn học thì mẹ cũng đầu tư". Tuổi thơ quá vất vả nên ước mơ của tôi chỉ là thoát khỏi đồng ruộng và làm gì cũng được miễn là không phải tiếp tục làm ruộng nên chỉ biết phấn đấu học hành, tìm thầy giỏi để học và hy sinh nhiều những thú vui chơi của tuổi trẻ mới lớn. Khi tôi vào đại học, mẹ đã rất tự hào. Kỳ đóng học phí đầu tiên mẹ tôi bán hết 1/3 số thóc chỉ để đủ đóng một kỳ. Đã lâu lắm lần đầu tiên tôi mới rơi nước mắt vì chứng kiến điều đó. Tôi đã thề với lòng mình là sẽ không bao giờ về nhà lấy tiền nữa và cuộc sống của chàng trai 18 tuổi bắt đầu tự lập tại Thủ đô với muôn vàn cơ cực cũng bắt đầu từ đó.

Vừa vào đại học thì bố tôi mắc bệnh hiểm nghèo. Án tử hình ung thư gan không thể nào thoát tử, khi phát hiện có bệnh cả nhà cũng đưa bố đi hết tất cả các bệnh viện tốt nhất có thể nhưng chỉ 1 tháng 10 ngày ông đã không qua khỏi. Mẹ tôi suy sụp hoàn toàn, sụt hơn 10 kg, mất ngủ triền miên và huyết áp tăng vọt. Tôi cũng ngủ bê bết và nghỉ học triền miên không theo kịp các bạn sau những ngày dài và chạy đi chạy lại bệnh viện và chăm bố ở nhà gầy rộc đi. Các cô nhìn tôi chỉ khóc vì sợ tôi sẽ bỏ học và không qua được cú sốc này. Nhưng may mắn thay chỉ sau 1 tháng tôi đã đứng vững được và tiếp tục cùng mẹ nuôi 3 em trai ăn học. Tôi tốt nghiệp đại học, mặc dù không có gì xuất sắc những nhờ sự xông xáo trong các hoạt động và làm được việc nên may mắn được các thầy cô tạo điều kiện được ở lại Khoa làm việc với vị trí đầu tiên là Trợ lý cho Chủ nhiệm khoa phụ trách công tác sinh viên sau đó cứ thế phát huy được năng lực và trưởng thành người lãnh đạo và quản lý còn rất trẻ. Nhưng rồi lần lượt tôi cũng bỏ các vị trí đầy ước mơ của nhiều người rời nhà nước ra ngoài làm quản lý cho doanh nghiệp rồi tự làm kinh doanh riêng. Mỗi lúc thay đổi như vậy, mẹ tôi đều rất lo lắng. Từ lúc ra Hà Nội mẹ chỉ nghe kể chứ chưa bao giờ biết chỗ tôi học và làm việc ở đâu. Với mẹ chỉ cần con ổn định phát triển là được không cần phải có nhiều tiền. 

Khi đi làm từ mua chiếc xe máy đầu tiên cho đến khi tôi lập gia đình để có thể mua đất xây nhà phải vay mượn rất nhiều, có ít tiền nào mẹ đều ưu tiên đưa để trả nợ trước. Lần lượt đến các em đứa nào mẹ cũng lo như thế cho đến khi từng đứa lần lượt lập gia đình. Rồi hết lượt đứa này đứa khác sinh con mẹ đều chăm sóc và trông nom các cháu mà không kêu ca phàn nàn. Lo cho từng đứa đất cát rồi xây dựng nhà cửa to to nhỏ nhỏ cũng ổn định chỗ ở và yên tâm làm việc, nuôi con.

Tình mẹ tôi rất chu đáo mọi việc kể cả là phi nội tác ngoại, nhưng tính hay ác khẩu nên con cháu đều sợ, không vừa không phải là nói ngay nhưng cũng quên ngay. Thời nhỏ tôi cũng rất hay cãi mẹ vì thấy nhiều chuyện mình đúng mà vẫn bị ăn mắng. Về sau ra đường va chạm xã hội, tôi càng hiểu mẹ tôi hơn vì đó là tính cách và sự hạn chế của bà, tôi cũng có vài lần có ý đồ sẽ góp ý với bà để bà thay đổi cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn nhưng điều đó cũng không cải thiện là mấy. Khi đã có chút điều kiện về kinh tế tôi cũng chăm sóc sức khỏe cho mẹ nhiều và đưa mẹ đi đây đi đó cho mẹ biết thế giới bên ngoài. Kể từ khi biết tu, tôi thương mẹ tôi nhiều, tôi dành nhiều thời gian chia sẻ pháp cho mẹ để mẹ sống nhẹ nhàng và biết buông bỏ hơn, mỗi khi có thời gian tôi lại về và nói chuyện với mẹ nhiều hơn, càng ngày lớn tuổi tôi thương mẹ càng nhiều hơn và hiểu mẹ hơn. Mẹ tôi vẫn nói như vậy, nhưng tôi đã hiểu chỉ là các cảm giác của mẹ và cũng chỉ là cảm giác của tôi nên tôi không còn phản ứng với những câu nói đó. Tôi cũng chia sẻ thường xuyên với vợ, các em trai và em dâu để chúng hiểu hơn tính cách của mẹ, tuy các em đều học hành cao hơn mẹ và có điều kiện ra ngoài va chạm xã hội và cũng đều đã có con, đứa nào cũng tử tế cả nhưng nhận thức mỗi đứa sẽ mỗi khác nên tùy thái độ sống của chúng mà sẽ thay đổi theo thời gian. Tôi chưa bao giờ trách vợ hay các em cả, thỉnh thoảng chỉ nhắc nhở. Khi nào chúng ngộ được ra rằng: Mỗi người mỗi tính, không ai giống ai và trên đời này ngoài mẹ ra sẽ chằng có ai có thể đối xử tốt và hy sinh cả cuộc đời cho con cháu ngoài mẹ và rồi đến lượt chúng cũng sẽ làm thế với các con của mình thì chúng sẽ thương mẹ nhiều hơn, không còn trách mẹ nữa vì mẹ già rồi, tính cách cũng khó thay đổi và đầu óc cũng ngày càng chậm đi mỗi ngày.

Còn với tôi đã 43 năm cuộc đời đã qua bao nhiều quốc gia trên thế giới và va chạm xã hội đủ thứ, những thăng trầm cay đắng cuộc đời đã nếm trải và có sự tu tập gần 7 năm nên luôn ý thức rõ ràng thời gian mẹ ở lại với chúng tôi chắc chắn sẽ không còn nhiều nữa. Tôi cảm nhận rõ chữ hiếu vẫn chưa trọn với mẹ. Điều mong muốn lớn nhất của tôi với mẹ bây giờ không còn là chuyện cơm áo gạo tiền và thời gian bên mẹ mà là giúp mẹ biết đến chánh pháp và sống với chánh pháp để biết buông bỏ mọi cảm thọ để sống những ngày tháng bình an lúc cuối đời. 

Mẹ ơi, hãy tha lỗi cho chúng con vì thỉnh thoảng vẫn làm cho mẹ buồn. Cho con dù có bao nhiêu tuổi, cho dù có thể nào, các con vẫn mãi chỉ là những đứa con bé bỏng của mẹ. Con chỉ mong mẹ sống những tháng ngày bình an bên gia đình, cho dù có phải hy sinh hay làm bất cứ điều gì để mẹ được sống bình an con cũng sẽ gắng làm mẹ ạ.

Rằm Tháng Bảy năm 2020

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2020

about

SƠ YẾU LÝ LỊCH
Curriculum Vitae

THÔNG TIN CHUNG


Họ và tên: Trần Văn Dũng
Năm sinh: 1978       
Giới tính: Nam
Nơi sinh: Quang Minh - Mê Linh - Hà Nội
Nơi ở hiện tại: LongVietReverside - Quang Minh - Mê Linh - HN
Văn phòng: Tòa 21T2, Hapulico, 83 Vũ Trọng Phụng, Thanh Xuân, HN; Tầng 3 - D2 Giảng Võ - Đống Đa - HN.
Điện thoại liên hệ: 092117707/0355868788 (Zalo)
E-mail: dungtranvan@gmail.com
Facebook.com/dungtranvan
https://t.me/dungtranvan
Website:
https://gosinga.vn/
Phương châm sống: Hiểu biết như thế nào thì sẽ sống như vậy. Sống Thân khỏe & Tâm an ngay bây giờ và tại đây.



QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
+ Cử nhân (1996 - 2000): Toán tin ứng dụng K41, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN.
+ Thạc sĩ (2005 - 2008): Khóa 7, Quản lý Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN (Đề tài: Doanh nghiệp khởi nghiệp Spin-Off).
Các khóa bồi dưỡng ngắn hạn ngoài nước:
 o   Dinh dưỡng học và Canh nông hữu cơ (8/2014), USA
 o   Truyền thông và Thương hiệu doanh nghiệp, Australia (11/2014)
 o   Dinh dưỡng học (01/2012), Taiwan.
+ Tư vấn viên Viện dinh dưỡng Quốc gia (2018), Nâng cao (2022)
+ Huấn luyện viên Dinh dưỡng và Vận động- Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh (2021).

Đã đi thăm quan và làm việc tại các nước: (38 lần, xem nhật ký)
Các khóa bồi dưỡng ngắn hạn trong nước:
o   MiniMBA (2010 - 2011): Khoa quản trị Kinh doanh, Đại học FPT.
o   Dinh dưỡng học (2011-2016).
o   Kỹ năng truyền thông và xây dựng thương hiệu trường đại học (6/2009)
o   Quản trị đại học (6/2009).
o   Kỹ năng triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2008 trong quản lý (5/2009).
o   Tiếng Anh nâng cao dành cho cán bộ trường ĐHKHTN do người nước ngoài giảng dạy (2/2009 - 4/2009).
o   Trường Toán quốc tế CIMPA SCHOOL (Hà Nội, 2000).

QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Từ 2019- nay:
+ Phó Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Gosinga Việt Nam.
+ Phó Chủ tịch Excellent Việt Nam.
2011- nay: Giảng viên cộng tác & Nhà phân phối cấp cao Amway toàn cầu tại Việt Nam (Diamond Direct Distributor)
Từ 12/2016 – 2018:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần QK Việt Nam.
Thành viên Ban Quản trị Excellent Việt Nam.
Giảng viên kiêm nhiệm Học viện Chính sách và Phát triển Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Từ 06/2015:  Phó Giám đốc phụ trách Công nghệ công ty Saca Việt Nam – đối tác độc quyền Moisslein, Đức.
Từ 06/2011: Ủy viên Ban Quản trị Excellent Việt Nam – Tầng 15 tòa Hacinco B3.7 Hoàng Đạo Thúy – Thanh Xuân - Hà Nội
Từ 2010 - 2011: Đầu tư Bất Động sản tự do và nghiên cứu các sáng chế công nghệ ứng dụng
Từ 11/2010 – 01/2011: Công ty Cổ phần giáo dục APROTRAIN, số 285 Đội Cấn – Ba Đình – Hà Nội. Giám đốc văn phòng kiêm phụ trách văn hóa doanh nghiệp và quan hệ học viên.
Từ 07/2010 - 10/2010: Viện nghiên cứu Công nghệ FPT.
Trưởng phòng Đầu tư và Phát triển. Ban Chủ nhiệm CLB Viện lãnh đạo FPT.
Từ 09/2009 – 6/2010: Trường Đại học FPT, số 8 Tôn Thất Thuyết - HN.
Trưởng phòng Công tác Sinh viên
Từ 08/2008 - 8/2009: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN, số 334 Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội.
Chức vụ: Phó trưởng ban Quản trị hệ thống Công nghệ Thông tin trường ĐHKHTN kiêm chuyên viên Phòng Tổ chức Cán bộ phụ trách tổng hợp, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm chức vụ, an ninh quốc phòng.
Từ 08/2007 - 08/2008: Thành Đoàn - Hội Sinh viên Thành phố Hà Nội, số 14A Phan Chu Trinh – Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Chức vụ: Quyền Trưởng ban Thanh niên trường học Thành Đoàn Hà Nội kiêm Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Thành phố Hà Nội.
Từ 03/2005 - 8/2007: Phòng Tổ chức Cán bộ Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN.
Chức vụ: chuyên viên Phòng Tổ chức Cán bộ kiêm Phó Bí thư Thường trực Đoàn trường, Ủy viên BCH Đoàn ĐHQGHN.
Từ 03/2004 - 2/2005: Văn phòng Đoàn Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN.
Chức vụ: Phó Bí thư Thường trực Đoàn trường, Ủy viên BCH Đoàn ĐHQGHN.
Từ 09/2000 - 2/2004: Khoa Toán - Cơ - Tin học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN.
Chức vụ: Trợ lý Chủ nhiệm Khoa phụ trách công tác Sinh viên, kiêm Phó Bí thư Đoàn trường ĐHKHTN.

HOẠT ĐỘNG CHÍNH HIỆN NAY
1. Đào tạo và Tư vấn chuyên sâu về giải pháp tối ưu cho sức khỏe toàn diện, tư vấn dinh dưỡng, kiểm soát vóc dáng.
2. Hướng dẫn thiền và ứng dụng trong cuộc sống từ 2014 (xem batchanhdao.vn)
3. Đào tạo kỹ năng sống thích nghi, kỹ năng chú tâm liên tục từ 2019 (xem gosinga.vn)
4. Tư vấn các vấn đề khủng hoảng trong tâm lý, cuộc sống, sức khỏe và công việc.
5. Đào tạo Kỹ năng bán hàng và Chăm sóc khách hàng.
6. Đào tạo kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, quy hoạch cuộc đời, quản lý thời gian, quản lý tài chính, xác định mục tiêu và lập kế hoạch, quản trị doanh nghiệp, khởi nghiệp.
7. Tư vấn xây dựng văn hóa doanh nghiệp.

MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG KHÁC
- Đã thực hiện hơn 10 đề tài nghiên cứu khoa học và Dự án ứng dụng cấp trường và cấp Thành phố.
- Thành viên Hội đồng thẩm định dự án khởi nghiệp Đại học Quốc gia Hà Nội (2018-2019)
- Tham gia phản biện các đề tài nghiên cứu khoa học ứng dựng, tư vấn xây dựng Văn hóa doanh nghiệp.
- Tổ chức và hướng dẫn nhiều khóa thiền ứng dụng cho Trí thức và Doanh nhân.
- Giảng dạy cho Tập đoàn Microsoft Việt Nam và một số trường đại học, công ty giáo dục tại Việt Nam.
- Làm diễn giả cho nhiều sự kiện của Trung ương và các tỉnh thành về các chủ đề: khởi nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, kỹ năng sống, …

KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG QUỐC TẾ
Hơn 15 năm đã đi ra công tác và làm việc 37 lượt tại nhiều quốc gia như: China, Lao, Taiwan, ThaiLand, Singapore, Indonesia, India, Australia, Japan, US, Philipines, Malaysia, Korea.
HÀNH TRÌNH NƯỚC NGOÀI
1. China 4/2006 (Côn Minh)
2. Laos 7/2018 (Viêng Chăn)
3. China 10/2010 (Quảng Châu, Phúc Kiến)
4. Taiwan: 1/2012 (Đài Bắc, Đài Đông, Cao Hùng)
5. ThaiLand: 2/2012 (Bangkok)
6. Singapore: 11/2012
7. Indonesia: 11/2012 (Bali)
8. India: 1/2013 (New Dehi)
9. China: 1/2013 (Quảng Châu)
10. Taiwan: 1/2013 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
11. Singapore: 5/2013
12. Australia: 5/2013 (Sydney)
13. Japan: 11/2013 (Osaka, Nara, Kyoto, Kobe)
14. Taiwan: 1/2014 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
15. US: 8/2014 (California, Oregon, Wasington)
16. Korea: 8/2014 (Seoul)
17. Philipines: 10/2014 (Makati)
18. Indonesia: 12/2014 (Jakata)
19. Malaysia: 12/2014 (Kualalumpur)
20. Japan: 12/2014 (Fukuoka, Beppu, Kumamoto)
21. Taiwan: 1/2015 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
22. Korea: 1/2015 (Seoul)
23. Malaysia: 5/2015 (Kualalumpur)
24. Malaysia: 6/2015 (Kualalumpur)
25. Malaysia: 7/2015 (Kualalumpur, Genting)
26. Malaysia: 8/2015 (Kualalumpur)
27. Australia: 11/2015 (Melbunre)
28. Taiwan: 1/2016 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
29. Singapore: 4/2016
30. Thailand: 2/2016 (Bankok, Pattaya)
31. Taiwan: 11/2016 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
32.  Malaysia: 5/2017 (Kualalumpur)
33. China: 2/2018 (Thượng Hải, Giang Tô, Hàng Châu)
34. ‎China 4/2018 (Quảng Châu, Thâm Quyến)
35. ‎Malaysia 6/2018 (Kualalumpur)
36. ‎Taiwan 11/2018 (Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng)
37. ‎Korea 12/2018 (Seoul)
38. China 2/2019 (Thượng Hải, Chiết Giang/Hải Ninh)

CÁC LỚP ĐÃ GIẢNG DẠY
I Đại học Hệ Chính quy
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: K44 Báo chí, K44 Triết học, K45 Báo chí, K45 Tâm lý học, K46 Báo chí, K47 Xã hội học, K48 Đông phương, K49 Khoa học Quản lý.
K5 Quản trị Doanh nghiệp – Học viện Kỹ thuật Quân sự
II. Đại học Hệ Tại chức – Vừa học vừa làm ĐHKHTN
Lớp chuyển đổi CĐ-ĐH: K3 Hòa Bình
Lớp chuyển đổi CĐ-ĐH: K1 Thanh Hóa
Lớp chuyển đổi CĐ-ĐH: K2, K3 Vĩnh Phúc
Xã hội học Hải Dương.
IV. Quản lý và Trợ giảng:
Chủ nhiệm lớp: Hệ chính quy (K46 Toán, K46 Cơ, K44A4 Toán tin), Hệ tại chức (K4 Toán tin, 603A1 Tin học)
Trợ giảng: Cử nhân Khoa học Tài năng, Trường THPT Chuyên Hùng Vương, Phòng GD huyện Thanh Sơn.
V. Bồi dưỡng kiến thức khác
Kinh nghiệm khởi nghiệp cho SV ĐHQGHN, ĐH Công nghiệp HN
Các khóa học Tin học cơ sở cho giáo viên các trường THPT Hải Phòng theo dự án của Tập đoàn Microsoft Việt Nam
VI. Hệ trung cấp
Trường TC Kinh tế Kỹ thuật Thương Mại – Trung Văn – HN
VII. Hệ đào tạo nghề
Trường đạo tạo Mỹ thuật đa phương tiện Arena
VIII. Hệ THPT
Trường THPT Minh Phú
Lớp bồi dưỡng Sở Lao động Tp Hà Nội
IX. Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
Cơ quan Trung ương Đoàn.
Tỉnh Đoàn Lào Cai
Tỉnh Đoàn khu vực Tây Nguyên
Đại học Kinh doanh và Công nghệ
Đại học Phương Đông
Tỉnh đoàn Sơn Tây
X. Các khóa kinh doanh cho Exccellent Việt Nam & Amway Việt Nam
XI. Các khóa thiền cho Doanh nhân- Trí thức.

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

LƯU CÁC BÀI VIẾT TRÊN FB THIỆN DŨNG ĐẾN THÁNG 12/2019


Tuổi đời, tuổi đạo không có ý nghĩa nhiều mà thực tại người tu đã đoạn trừ được bao nhiêu Vô minh và Hữu ái.
Còn vô minh thì còn Tham, Sân, Si còn Sầu bi khổ ưu não, còn luân hồi tái sinh.
Trong 3 ái thì Dục ái, hữu ái và phi hữu ái thì Dục ái có thể nhiều người có thể đoạn trừ được, còn hữu ái thì khốc liệt hơn nhiều và điều này có thể quan sát thông qua cuộc sống thế gian nhưng chỉ thực sự thân chứng được khi đối diện với cái chết.
Để trở thành bậc giải thoát thì theoPHÁP CÚ 294:
"Sau khi giết mẹ cha
Giết hai vua sát lỵ
Giết vương quốc quần thần
Vô ưu phạm chí sống".
Giết Mẹ cha: Đoạn tận Vô minh và hữu ái.
Giết 2 vua sát lợi: Đoạn tận Chấp có- chấp không hay Thường kiến -đoạn kiến hay Duy tâm -duy vật.
Giết Vương quốc quần thần: đoạn tận 5 Thủ uẩn hay bản ngã.

Hiểu biết: Khổ do tiền bạc và người còn tại gia không chịu làm việc kiếm tiền cũng là Vô minh vì đó vẫn là hiểu biết Tâm thấy cảnh.
Hiểu biết đúng sự thật: Tham ái cảm giác dễ chịu khi có nhiều tiền và chán ghét cảm giác khó chịu khi không có nhiều tiền hay nói gọn Tham ái lạc thọ mới là nguyên nhân khổ.
Người tại gia vẫn làm việc mưu sinh cuộc sống và hàng ngày vẫn chánh niệm và tinh tấn vào công việc nhưng không có ràng buộc với các kết quả thì khổ sẽ không có mặt.

Bản chất quá trình tương tác các pháp chỉ là các tương tác thông tin. Có ít nhất là 2 nhân, các nhân đôi một tương tác với nhau cùng diệt mới phát sinh quả (có thể có nhiều quả). Hiểu biết đúng sự thật này thì sẽ không cho bất kỳ pháp nào là thường xuyên có, luôn luôn có mà là sinh diệt liên tục theo duyên khởi.
Tu là thay đổi Thấy và Biết và khi nào kho chứa thông tin Minh - Hiểu biết đúng sự thật thay thế Thông tin Vô minh - Hiểu biết không đúng sự thật. Khi ấy Chánh niệm có mặt thì lộ trình Tâm Bát Chánh đạo cũng khởi lên một cách tự động. Trên Lộ trình tâm Bát Chánh đạo có Không, Vô tướng, Vô tác, Khổ không có mặt.

Tín đồ Phật giáo giảm hay tăng không quan trọng. Điều quan trọng là bao nhiêu người đang tu chánh pháp và bao nhiêu còn chìm đắm trong tà pháp chưa nhận ra. Đạo Phật Thật dành cho một số ít người Trí. Điều này đã được khẳng định qua nhiều bản kinh mà ngài đã tự thán rằng:
"Pháp mà Ta chứng được sâu kín, tịch tĩnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu. Còn quần chúng này thì đam mê Ái Dục, bị Ái Dục ràng buộc nên Lý Duyên Khởi là một điều rất khó lĩnh hội và Niết Bàn, sự từ bỏ mọi Tham ái, sự chấm đứt mọi Tham ái, sự đoạn tận mọi Tham Ái cũng là điều rất khó lĩnh hội".

Tâm là Vô tướng trạng mà dùng ngôn từ để khéo diễn tả đã là rất khó rồi nên việc người tu tranh luận nhau về pháp là điều rất bình thường, còn ai đã thấy và biết được sự thật về pháp và duyên khởi các pháp rồi thì không còn tranh luận với ai nữa.

2 LOẠI NIỀM TIN
Mê tín: Đức Phật là vị thần linh, đáng tối cao có thể ban phước hay giáng họa nên Phật tử cầu cúng ngài phù hộ dưới nhiều hình thức khác nhau để ngài ban cho sức khỏe, sắc đẹp, giàu có, địa vị, hạnh phúc, ...
Chánh tín mà tôi biết: Đức Phật là một con người bình thường và ngài là một nhà khoa học vĩ đại đã khám phá ra sự thật thực tại và hơn thế nữa ngài là nhà sư phạm lỗi lạc đã hướng dẫn cho chúng sinh lối sống thoát khổ giống như ngài và ai muốn điều đó đều phải tự đi, còn ngài chỉ là người chỉ ra con đường.
Giáo pháp mà ngài đã chứng ngộ và khéo thuyết giảng cho tùy từng đối tượng khách nhau trong những hoàn cảnh khác nhau thì rất nhiều nhưng cũng chỉ xoay quanh 4 chân lý (Tứ Thánh đế hay Tứ Diệu đế): Sự thật về Khổ (Khố đế), Sự thật nguyên nhân Khổ (Tập đế), Sự thật hết khổ (Diệt đế), Con đường hết khổ (Đạo đế) là Bát Chánh đạo.
Những ai may mắn ban đầu có chánh tín sau khi đã được một vị chân sư thuyết giảng có được hiểu biết và tâm tích cực khởi lên lộ trình Văn - Tư - Tu sẽ tự mình đi kiểm chứng và tự thấy tự biết thì sẽ có Chánh kiến và khi đó Bát Chánh đạo mới trở thành lối sống.

Thời gian chỉ là pháp chế định. Khi vị hành giả an chú chánh niệm - tỉnh giác thì trạng thái về thời gian không có mặt.
Năm cũ hay năm mới không có ý nghĩa nhiều. Quan trọng là người tu có tinh tấn và tiến bộ lên được chút nào và Tham, Sân, Si có được giảm trừ và Bình an có tăng trưởng.
(Thời gian không phải là pháp chế định ( là cái con người đặt ra ) mà cái NGÔN TỪ thời gian là pháp chế định, nghĩa là do con người đặt ra để chỉ cho một sự vật ( hay hiện tượng ) là Khái niệm thời gian. Nhưng khái niệm thời gian là khái niệm thuộc về Tâm biết ý thức không phải là đặc tính thực có của Thế giới vật chất như hiểu biết của nhân loại và khoa học. An trú Tĩnh giác sẽ thân chứng không hề có kn thời gian, đó là vô niệm thời gian.)

Sinh mạng thực sự rất mong manh. Bất kỳ duyên nào có thể là hạt bụi, một độc tố, một va chạm do tai nạn hay một cú sốc đều có thể chấm dứt hơi thở và kết thúc một sinh mạng.
Không ai có thể biết ngày mai đến trước hay đời sau đến trước. Con người phàm chỉ qua đời này rồi đời khác theo duyên khởi luân hồi chứ không chết.
Đức Phật đã từ bi khuyên rằng:
"Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai
Không thể điều đình được
Với đại quân thần chết".
Người trí tinh tấn tu để chết - chết thật chứ không phải là để qua đời.

Nếu một người hành trì đủ hơn 200 điều luật nhưng không có Văn - Tư - Tu thì hoa trái của sự tu tập gặt được là rất ít ỏi.
Nhưng một người có đủ cả Văn - Tư - Tu thì không cần trì giới hay luật gì nữa. Giới tự tròn đủ và trong sạch. Khi ấy Bát Chánh đạo đã thực sự trở thành lối sống chứ không còn trên sách vở, nói miệng nữa.
Do vậy Phật mới thuyết: Trí tuệ (Ý thức - Chánh kiến) dẫn đầu các pháp.

Tại đây, tôi (pháp chế định) xác nhận không theo bất kỳ một tôn giáo nào và cũng không sùng bái Phật hay bất kỳ một vị thầy nào. Đây là sự thật.

Không ai có thể tưởng tượng rằng có nhiều người có bằng cấp trình độ và nhận thức hoàn toàn tỉnh táo lại có thể chế tạo ra ma túy, các chất độc, vũ khí tối tân để hủy diệt con người với quy mô lớn.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhưng nội tâm con người thì ngày càng đau khổ và không có lối thoát.
May mắn thay vẫn còn một số ít người nhận ra được và đi theo lối sống khác. Đó là lối sống Bát Chánh đạo.

Khi đang Văn, Tư thuộc hiệp thế - lộ trình tâm thế gian thì hiểu biết và tư duy Bát chánh đạo chỉ là 8 đề mục.
Chừng nào chứng được Bát Chánh đạo siêu thế - xảy ra trên lộ trình tâm thật thì đó mới là Tu tuệ.

Con người (pháp chế định) bản chất cũng là một cỗ máy sinh học - là những lộ trình Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức liên tục sinh lên rồi diệt theo duyên khởi.
Thấy và Biết đúng như thật thì Thân kiến cho rằng có một cái ta là chủ nhân chủ sở hữu của thân và tâm này chấm dứt.

Đường nào đi đến hết khổ đều được.
Theo Kinh điển Pali Nikaya thì Bát chánh đạo là Đạo đế - Con đường độc nhất đi đến chánh trí, giác ngộ, niết bàn và phương tiện để đi trên con đường đó là Pháp hành Tứ niệm xứ.

Người đang tu muốn đi xuất gia thì chưa dám.
Còn ở tại gia có gia đình thì không muốn làm việc gì vì không còn động lực.
Thực chất trạng thái tâm vẫn là tham, sân, si và đương nhiên là còn phiền não. Cho dù ở đâu vẫn là chạy trốn cảnh. Tâm vẫn không thay đổi.
Khi lộ trình tâm là Bát chánh đạo, Chánh niệm có mặt thì Chánh tinh tấn (tích cực) tự động có mặt. Cho dù là xuất gia hay tại gia thì làm gì không còn quan trọng mà làm như thế nào với Chánh niệm mới là quan trọng.

Cho rằng thân này là giả tạm, đời này là giả tạm, hạnh phúc là giả tạm, khổ đau là giả tạm, tâm là giả tạm, ... hay thường hằng, thường có đều là các cực đoan hay là tà kiến.
Đức Phật thuyết các pháp (sự vật, hiện tượng hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều do duyên khởi.

Tuệ tri được 6 xúc xứ, thấy và biết thực tại là cảm thọ với 2 loại tâm biết (tâm biết trực tiếp giác quan và tâm biết ý thức gián tiếp) mới là sự khởi đầu đi vào khám phá sự giác ngộ của Đức Phật.
Chừng nào còn bàn trên cảnh, Tâm thấy Cảnh thì sẽ không thể biết được Đức Phật giác ngộ về điều gì.

Hiểu được "Dục như hố than hồng" thì chắc chắn sẽ không thò tay vào bốc để chơi rồi bỏng tay.
Từ bản kinh đầu tiên là Chuyển pháp luân cho đến vô số bài kinh được chép lại ở các bối cảnh khác nhau Phật chỉ xoay quanh thông điệp: Tham ái là nguyên nhân khổ. Muốn hết khổ phải hết tham ái mà ở đây tham ái là niềm vui, hạnh phúc, hỷ lạc chỗ này chỗ kia như Dục ái, hữu ái và phi hữu ái.
Hạnh phúc là một đầu, khổ đau là một đầu mà con người chỉ muốn quẳng đầu khổ đau xuống để quẩy đầu hạnh phúc lên thì chỉ là ảo tưởng.
Chỉ có đặt gánh nặng xuống hay đầu hạnh phúc xuống là hết khổ.

Hiểu biết: Khổ do người khác mang tới hay khổ do mình gây ra, do nghiệp quá khứ tạo tác đều là một loại tà kiến. Đức Phật thì thuyết Khổ do duyên khởi. Không có duyên thì khổ không khởi.
Nói tắt là trên lộ trình tâm thế gian của phàm phu: vô minh có mặt thì tham, sân, si có mặt và khổ có mặt.
Trên lộ trình tâm bậc thánh: Minh có mặt thì tham, sân, si không có mặt và khổ không có mặt.

Đời người đi học 12 năm phổ thông, 3-5 năm năm đại học, 3-5 năm thạc sĩ, tiến sĩ và nhiều hơn nữa nhưng cuộc sống cải thiện thực sự không được bao nhiêu. Vậy mà dành ra 10 ngày để nghiêm túc xây dựng nền tảng tu tập và giảm bớt khổ ngay lập tức và đã có nền tảng rồi tinh tấn tu tập trong cuộc sống hàng ngày thì chắc chắn sẽ ngày càng bớt khổ và thay đổi chất lượng cuộc sống và công việc cũng chỉ có ít ỏi người.
Thay đổi hiểu biết là thay đổi cuộc đời. Hiểu biết thế nào thì sẽ sống như vậy.
Vô minh thì sẽ có tham, sân, si sẽ có phiền não.
Minh sẽ không có tham, sân, si sẽ không có phiền não.

Cho dù người tu có kêu tên Đức Phật Thích Ca hay vị Phật nào khác và nhớ đến ngài từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ hay có từ bỏ cả gia sản, danh vọng, địa vị hay quyền lực để đi theo ngài thì cũng không có cách nào để ngài giải thoát hộ được.
Cho đến khi vị ấy thông qua lộ trình Văn - Tư - Tu và tự mình chứng ngộ Tứ thánh đế (hay Tứ diệu đế) thông qua 3 mức độ Chứng - Trú và Sống với Bát chánh đạo là con đường Vắng mặt khổ đau - Con đường Niết bàn vị ấy sẽ từng bước giảm khổ và tinh tấn tu tập để đi đến hết khổ. Đó là con đường độc nhất.

Nếu biết rõ có con đường để chết - chết hẳn - chết thật thì chắc chắn nhiều người sẽ không chọn cách qua đời.

CON ĐƯỜNG
Mục đích của tất cả các tôn giáo cuối cùng cũng là tìm ra con đường hết khổ hay khám phá ra: Sự thật về khổ, Nguyên nhân dẫn đến khổ, Sự hết khổ hay vắng mặt khổ và Con đường đi đến sự vắng mặt khổ. Nhưng tất cả chỉ tìm thấy liều thuốc giảm đau.
Chỉ có Đức Phật là nhà khoa học vĩ đại đầu tiên đã khám phá và phát hiện ra sự thật thực tại này, chứng ngộ sự vắng mặt khổ và hơn thế nữa ngài còn là Nhà giáo dục lỗi lạc đã dành trọn cuộc đời hướng dẫn cho nhiều người làm được giống như ngài và Đạo phật Thật thì lại không phải là Tôn giáo mà là khoa học.
Sùng bái Phật và Cầu nguyện ngài không có tác dụng gì cả. Chỉ có Văn - Tư - Tu theo con đường mà ngài đã giác ngộ mới hết khổ. Đó là con đường chứng - trú và sống với Bát chánh đạo.

Người tu làm bất kỳ điều gì, nếu điều ấy không có lợi ích cho việc làm cho mình hết khổ thì việc lo cho người khác hết khổ là không có tác dụng nhiều.
Khi mình đã bớt khổ và hết khổ thì sẽ có thể giúp cho người khác bớt khổ và hết khổ được.
Do vậy việc bản thân tu tập vẫn là điều quan trọng nhất.

Một người muốn tu để hết khổ hay giải thoát mà không thực hành Tứ niệm xứ từ lúc thức dậy cho tới lúc đi ngủ thì việc hết khổ là không có thực tế.
Ví như một người muốn qua sông mà không muốn bơi qua, không muốn đi đò mà chỉ ngồi bên này bờ mà nghĩ rằng mình sẽ qua bên kia bờ thì chỉ là ảo tưởng.

Mục đích tối thượng của sự tu tập mà Đức Phật đã giác ngộ và thuyết giảng là để Hết khổ hay Vắng mặt khổ bằng con đường Bát chánh đạo chứ không phải là làm cho Giới luật trọn đủ. Giới bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng chỉ là 3 trong số 8 chánh thuộc về Vô tác giải thoát -Trên Bát chánh đạo còn có Tâm giải thoát hay Không giải thoát và Tuệ giải thoát hay Vô tướng giải thoát nữa chứ không chỉ có Vô tác.

KHÔNG PHẢI TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐỀU LÀ KHỔ
Khổ đau là có thật. Hạnh phúc cũng là có thật.
Năm uẩn bao gồm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có nhiều pháp.
Chỉ khi căn trần tiếp xúc phát sinh đồng thời Thọ - Tưởng (Tâm biết trực tiếp giác quan) có 3 loại Thọ: Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc thọ. Các thọ đều vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã).
Do tham ái Lạc thọ những vì nó vô thường biến hoại biến diệt thì hoại khổ mới khởi lên.
Chán ghét Khổ thọ - Khổ khổ khởi lên.
Không thích cũng không ghét nhưng tìm kiếm Lạc thọ để thay thế trung tính - Hành khổ khởi lên.
Như vậy khổ chỉ phát sinh trên 19 lộ trình trong đó khổ do nội tâm 18 lộ trình.

Không ai kể cả Đức Phật có thể thấy được hơi thở. Sự thật này rất hiếm hoi người có thể biết được. Đức Phật ngài là nhà khoa học vĩ đại - người đầu tiên đã khám phá (phát hiện) ra thực tại này.

Khi một vị đã chấm dứt Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ cũng là lúc vị ấy chấm dứt mọi hoạt động cầu cúng, cầu nguyện. Việc vị ấy làm là thực hành chánh niệm từ khi thức dậy đến lúc đi ngủ làm cho lộ trình tâm Bát chánh đạo liên tục khởi lên và Bát chánh đạo trở thành lối sống tự nhiên như nhiên. Làm được như vậy thì phiền nào sẽ không có mặt và cũng không cần phải làm việc gì nữa.

CON ĐƯỜNG HÀNH TRÌ
Trong Trung Bộ Kinh Nikaya, mục 77 Đại kinh Sakuludayi, mục V, Con đường hành trì bao gồm:
1. Tứ Niệm Xứ
2. Tứ Chánh cần
3. Tứ Thần túc (Tứ như ý túc)
4. Ngũ căn
5. Ngũ lực
6. Thất giác chi
7. Bát chánh đạo.
Thực chất 37 chi phần đạo đế cũng là để làm rõ Bát Chánh đạo, bao gồm 2 phần.
Bát chánh đạo "Hiệp thế" thuộc về Văn, Tư là lộ trình tâm thế gian.
Bát Chánh đạo "Siêu thế" thuộc về Tu tuệ là lộ trình bậc thánh.
Đây cũng chính là con đường và tiêu chuẩn để đối chiếu lộ trình tâm người tu.

NHẬN MẶT 3 BIỂU HIỆN BẢN NGÃ
1. Ta biết: có 1 chủ thể biết và đối tượng được biết là thế giới.
2. Của ta: chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển.
3. Ta hơn, ta kém, ta bằng: so sánh, phân biệt.

Các pháp (sự vật, hiện tượng) tồn tại độc lập, không có pháp nào lệ thuộc, sở hữu hay điều khiển pháp nào hay nói khác đi các pháp là vô chủ, vô sở hữu (Vô ngã), sinh diệt theo duyên khởi. Chính vì vậy mà Đức Phật mới giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ và ngài đã hướng dẫn cho người có duyên có trí cũng giải thoát giống như ngài.

Người tu dù là tu sĩ hay cư sĩ đều biết Đức Phật giác ngộ là về Tứ Thánh Đế (hay Tứ Diệu Đế) trên Lý duyên khởi, trong đó Khổ đế và Tập đế là lộ trình tâm phàm phu (thế gian) có Tham, Sân, Si có Sầu bi khổ não, có luân hồi tái sinh. Diệt đế và Đạo đế (Bát Chánh đạo) là lộ trình tâm bậc Thánh không có Tham, Sân, Si, không có Sầu bi, khổ não, không có luân hồi tái sinh.
Nhưng vì sao người tu lại không thể đoạn trừ được Tham, Sân, Si trong đời sống hành ngày mà vẫn nhiều phiền não?

Hoa trái của sự tu tập chính là lối sống vắng mặt khổ trong thực tại. Khi Bát Chánh đạo trở thành lối sống thì lộ trình tâm đã nhu nhuyễn. Cho dù là bất kỳ điều kiện hoàn cảnh sống nào cũng vẫn thích nghi với thực tại. Thực tại là cảm thọ với 2 loại tâm biết: Tâm biết trực tiếp giác quan và Tâm biết Ý thức gián tiếp thông qua Tư duy.

Ai tu người đó hưởng. Ai làm người đó chịu. Thời nào cũng vậy. Thế gian nhiều người vẫn chìm trong vô minh hãy mở rộng lòng tư bi với tất thảy. Còn chánh pháp thì chỉ dành cho một số ít người trí.

Hoa trái của sự tu tập chính là thành tựu trong lối sống khi còn hiện hữu. Cho dù là con ở tại gia hay trong công việc hay ở chùa đều an lạc. Đó chính là sự thân chứng vắng mặt khổ. Bất kỳ ở đâu trong hình tướng nào hễ Tham, Sân, Si có mặt là khổ có mặt. Tham, Sân, Si không có mặt thì Khổ vắng mặt.

Phật chỉ thuyết xoay quanh 4 sự thật - 4 chân lý - Tứ thánh đế hay Tứ diệu đế trên Lý duyên khởi hay Nhân quả.
Tu tập là để hiểu biết đúng sự thật về khổ, nguyên nhân khổ, sự vắng mặt khổ và con đường vắng mặt khổ là Bát chánh đạo, hay nói gọn tu là để hết khổ.
Còn hiện hữu thì cho dù bất kỳ trong hoàn cảnh nào cứ thân có thức là còn tu.
Không quan trọng là tu sĩ hay cư si, tông phái hay Phương pháp nào cứ giảm trừ được Tham, Sân, Si và tiến đến đoạn trừ Tham, Sân, Si là đi đúng. Càng đi càng bớt khổ và hết khổ là đi đúng và ngược lại là đi sai.
Bất kỳ lúc nào tà niệm có mặt là là khổ có mặt. Chánh niệm có mặt là khổ vắng mặt.

Việc tu tập là để tự thấy tự biết chứ không phải là thấy và biết hộ người khác hay nhờ người khác thấy và biết hộ.
Cho dù có làm bao nhiêu việc thiện cũng không quên giải thoát mới là mục đích cuối cùng.

Khi chánh kiến có mặt xảy ra trên siêu thế biết rõ: Không có cái ta - bản ngã nào là chủ nhân, chủ sở hữu danh và sắc này. Không có ta biết, của ta, ta hơn, ta kém, ta bằng. Con người hay chúng sinh chỉ là những lộ trình sắc, thọ, tưởng, hành, thức sinh lên rồi diệt.
Bản ngã chỉ là lông rùa, sừng thỏ mà thôi.
Tư tưởng chấp thủ bản ngã khi ấy không có mặt, khổ cũng không có mặt.

Hiểu biết thế nào thì sẽ sống như vậy.
Mục đích của việc tu hành không phải để thanh tịnh hay trì giới mà là hiểu biết đúng như thật về:
1- Tham và Đoạn tận tham.
2- Sân và Đoạn tận sân.
3- Si và đoạn tận si.
Hay thay đổi từ hiểu biết Không đúng sự thật - Vô minh - Tà kiến sang hiểu biết đúng sự thật - Minh - Chánh kiến.

Các pháp (sự vật, hiện tượng) chỉ tồn tại 1 lần duy nhất, sinh lên rồi diệt, vô chủ, vô sở hữu. Thấy và biết như thật duyên khởi các pháp thì thân kiến - tư tưởng chấp thủ (tà kiến) về bản ngã được chấm dứt.
Do vậy để liễu tri một pháp cần liễu tri trên cả 4 khía cạnh: 1- Sự thật về pháp.
2- Tập khởi pháp.
2- Sự đoạn diệt pháp.
4- Con đường pháp đoạn diệt.

Bát chánh đạo hay Đạo đế trong Tứ Thánh Đế là con đường vắng mặt khổ đau. Đó là lối sống chứ không phải là sự tu tập. Ban đầu là sự tu tập theo lộ trình Văn - Tư - Tu để Chứng - Trú và Sống. Do vậy còn hiện hữu là Sống với lộ trình tâm Bát chánh đạo hàng ngày từ khi thức giấc đến khi đi ngủ mới là điều quan trọng. Đổi tâm chứ không phải là đổi cảnh.

Gọi trăng là một pháp (sắc pháp). Tên (danh) là để phân biệt pháp này với pháp khác: mặt Trăng, Mặt Trời, Vì sao, ...
Có Trăng. Đức Phật cũng biết có Trăng.
Nhưng trăng thật như thế thì không bất kỳ ai kể cả Đức Phật cũng không thể thấy được.
Sự thật này không ai chấp nhận cả nhưng đây lại là sự thật mà ngài đã giác ngộ.
Điều này đã được khẳng định trong bản kinh Kalaka, Tăng Chi Bộ Kinh Nikaya.

LƯU LẠI ĐỂ GHI NHỚ
Sự tu tập hàng ngày là như thế nào ?
Sự tu tập Tâm và Tuệ giúp cho hành giả chứng ngộ và an trú Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát phải được thực hành với sự tinh tấn (nhiệt tâm) cao nhất, không những khi tọa thiền mà phải liên tục suốt cả ngày từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, phải nối liền liên tục từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang tháng khác, từ năm này sang năm khác.
Mỗi một ngày hành giả phải thận trọng suy xét lại kết quả của sự tu tập, đã nhất hướng nhàm chán ly tham đối với dục lạc, nhàm chán ly tham đối với hữu, nhàm chán ly tham đối với phi hữu chưa? Đã nhiếp phục tham sân si ở mức độ nào? Đã nhất hướng đoạn diệt năm thủ uẩn chưa? Đã nhất hướng đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn chưa? Nếu chưa có hãy nỗ lực tinh tấn tu tập, nếu đã có hãy hoan hỷ trong sự tu tập ấy. Một người nếu có đủ bốn yếu tố này có thể tu tập thời gian từ 7 ngày đến 7 năm có thể chờ đợi kết quả là Chánh trí trong hiện tại (quả A la hán) và nếu còn dư sót là quả Bất lai.
Đây là lời khẳng định của Đức Phật trong bài kinh Niệm Xứ.

Sùng bái Phật bản chất cũng là mê tín.
Một vị tu hành có Trí tuệ do Văn - Tư - Tu khởi lên với cái biết ý thức chánh kiến Phật là bậc ứng cúng, chánh biến tri, ... tất thảy 10 danh hiệu đều hiểu rõ.
Pháp mà Đức thế tôn khéo thuyết giảng có tính chất: thiết thực, hiện tại; đến để mà thấy; không bị chi phối bởi thời gian; có tính hướng thượng; cho người trí tự mình giác ngộ.
Tăng là đoàn thể những người đang đi trên con đường giác ngộ giải thoát.
Hiểu biết rõ con đường mà ngài đã chứng ngộ và thuyết giảng là 4 sự thật Khổ- Tập- Diệt - Đạo trên Lý duyên khởi.
Khi ấy sẽ tự thấy tự biết và khâm phục Đức Phật là một nhà khoa học vĩ đại đã khám phá ra thực tại và ngài là nhà sư phạm lỗi lạc đã dạy cho chúng sinh con đường thoát khổ.
Vị ấy sẽ không còn mê tín, sùng bái một vị phật có thể ban phước hay giáng họa hay có phép màu nào đó có thể giúp được mình thoát khổ và sống hạnh phúc.
Sự thật này rất ít người có thể chấp nhận được.

BAO GIỜ CHO ĐẾN TRẺ CON
Khi chúng ta là những đứa trẻ thì suy nghĩ thật đơn giản và nghĩ sao nói vậy, lời nói và hạnh động thống nhất, đôi khi rất đáng yêu và đôi khi cũng đáng giận. Có buồn cũng chỉ khóc một tí là quên.
Khi trở thành người lớn từ suy nghĩ đến lời nói và hành động ngày càng trở nên mâu thuẫn và cuộc sống ngày càng giả tạo và đau khổ hơn.
Cuối cùng ước mơ xa xỉ nhất của người lớn là bao giờ tâm hồn mới lại trở thành trẻ con.


Bước sang mùa tu thứ 42, bắt đầu bằng khóa tu miên mật 9 ngày. Biết rằng còn sanh y là còn khổ nên tinh tấn tu tập từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ và trong mọi công việc.
Người cư sĩ sống trong gia đình còn nhiều phiền não thế gian nên quý trọng từng giây phút có thể tu tập là sẽ không ngừng nghỉ.
Chưa thấy được các pháp sinh diệt theo duyên khởi thì rất khó có cơ sở để đi đến sự giác ngộ.


Ngôn từ dùng để truyền thông và mỗi quốc gia, cộng đồng sử dụng các ngôn ngữ hay các phương tiện khác nhau để diễn đạt các sự vật, hiện tượng (pháp). Do vậy có nhiều cách diễn đạt khác nhau về đạo Phật nhưng cũng đều chỉ để diễn đạt về 4 sự thật hay 4 chân lý bậc thánh hay Tứ thánh đế hay Tứ diệu đế bao gồm: Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Trong đó Đạo đế chính là Bát chánh đạo - con đường đi đến niết bàn - con đường vắng mặt khổ đau.
Bát Chánh đạo gồm 8 chi phần: Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định, Chánh tư duy, Chánh kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

ÔN BÀI NGẮN VỀ NIỆM
Nói một cách thô: Niệm là một tâm hành, là trí nhớ - nhớ đến nội dung đã được học từ trước. Nội dung này lưu trữ trong kho chứa dưới dạng thông tin được mã hóa. Niệm có đặc điểm là kích hoạt thông tin nào nổi trội vào thời điểm tương tác. Do vậy thông tin trong kho chứa là minh hay vô minh nổi trội thì niệm sẽ kích hoạt thông tin đó.
- Niệm kích hoạt thông tin VÔ MINH thì lộ trình tâm sẽ đi trên Bát tà đạo (Tà niệm, Tà Định, Tà tư duy, Tà kiến, Tà tinh tấ
n, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng) - lộ trình tâm phàm phu - đi đến thế gian (với sầu bi, khổ, ưu não, sinh, già chết và luân hồi tái sinh). Niệm đó gọi là Tà niệm (chỉ có ý nghĩa phân biệt loại niệm).
- Niệm kích hoạt thông tin MINH thì lộ trình tâm sẽ đi trên Bát chánh đạo (Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định, Chánh tư duy, Chánh kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng)- lộ trình tâm bậc thánh - đi đến Niết bàn (không có khổ, không còn luân hồi tái sinh).
Tu là tạo nhân duyên cho chánh niệm khởi lên liên tục từng bước đi đến đột chuyển trong kho chứa xóa bỏ thông tin Vô minh thay vào đó là Minh. Muốn làm như vậy cần trải qua lộ trình song hành Văn - Tư - Tu. Bản chất tu là thực hành 4 chánh niệm (thân, thọ, tâm, pháp). Tất cả chỉ có như vậy.
Do vậy nói Bát chánh đạo là con đường độc nhất đi đến thành tựu chánh trí, giác ngộ, niết bàn hay Tứ niệm xứ là con đường độc nhất thực chất vẫn là chỉ Bát chánh đạo (Đạo đế trong Tứ Thánh đế: Khổ- Tập - Diệt- Đạo).


Cho dù là chánh kiến do văn tuệ khởi lên (thuộc về hiệp thế, do nghe giảng) hay Chánh kiến do tu tuệ khởi lên (thuộc về siêu thế, do tu tập thân chứng) thì đều nhận mặt được (trạch pháp):
1. Vô minh về khổ - tập - diệt - đạo.
2. Minh về khổ - tập - diệt - đạo.
Hay liễu tri tất cả các pháp trên cả 4 khía cạnh của Tứ thành đế.


Khi cái biết chánh kiến có mặt: biết rõ không có cái ta nào là chủ nhân chủ sở hữu thân & tâm này thì thân kiến chấm dứt. Bản ngã là không có thật được Đức Phật ví như Lông rùa - Sừng thỏ. Chỉ có tư tưởng chấp thủ bản ngã là có thật. Vậy việc tiếp theo là tinh tấn tu tập để đoạn trừ tư tưởng chấp thủ bản ngã.


Sự thật con người không thể THẤY được các sắc pháp (sự vật). Tất cả cái BIẾT ý thức về thế giới vật chất đều thông qua tư duy suy luận. Điều mà Đức Phật đã giác ngộ sâu kín về thực tại này chỉ là các cảm giác (cảm thọ) đi ngược lại với khoa học và nhận thức của nhân loại. Cho đến nay nay cả người tu Phật cũng rất khó lãnh hội.

Các pháp (hữu vi) đều vô thường (sinh diệt), vô ngã (vô chủ, vô sở hữu, không thể điều khiển khiển).
Vì chấp chặt vào các pháp là ta, là của ta, ta hơn, ta kém, ta bằng nên khi nó biến hoại biến diệt thì sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.


THẾ NÀO MỚI LÀ TÁN THÁN NHƯ LAI?
Sau khi bác bỏ 62 tà kiến.
"Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”. Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa. Và Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng
. Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, ch ỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết. Và chính những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến".
Kinh Phạm Võng, Phẩm II, Trường Bộ kinh Nikaya.

Trung Bộ Kinh I, số 28; Tương Ưng III, tr. 144 và Tiểu Bộ I, tr. 48: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật (Ta)."
Có thể biên tập lại về ngôn từ như sau:
"Ai như thật thấy Duyên khởi là thấy pháp.
Ai thấy pháp là thấy Như Lai".


Chia sẻ giao lưu và học hỏi về pháp hành:
Vì sao định của ngoại đạo chỉ là định tưởng (tà định) hoặc chú tâm trên một đối tượng, khi quán phải ra khỏi định trong khi Đức Phật quán lại ở trong định, càng ở tầng định cao thì quán càng vững chắc?

1. Khổ do người khác, do hoàn cảnh mang tới mình chịu.
2. Khổ do kiếp này mình làm mình chịu. Do kiếp trước mình làm mình chịu.
Cái nào là đúng?
Nếu cả 2 đều không đúng thì cái nào mới là đúng?


Ai cũng cho là phương pháp mình tu là đúng.
Vậy lấy tiêu chuẩn nào để kiểm chứng ?

Vì sao thực tế ngày nay có rất nhiều người là Phật tử nhưng lại không tin Phật?

Với sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay càng làm sáng rõ hơn những khám phá vĩ đại về THỰC TẠI của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Phật tử trên toàn thế giới những ngày này đều hướng đến Phật Đản (ngày Phật Thích Ca Đản sinh). Ai cũng biết người sáng lập ra Đạo Phật thật trong lịch sử hơn 2600 năm trước tại vùng Ấn Độ là Đức Bổn sư tự mình giác ngộ không thầy chỉ dạy. Ngài là nhà khoa học lỗi lạc đã khám phá ra sự thật thực tại đó là 4 chân lý của bậc Thánh (Tứ Thánh Đế) và ngài là nhà giáo- nhà sư phạm vĩ đại đã hướng dẫn chúng sinh lối sống thoát khổ bằng con đường Bát chánh đạo.
Thật may mắn thay ngày nay vẫn còn một số ít người trí ít bụi trong mắt đã khám phá ra sự thật này và thực hành để cũng thân chứng lối sống thoát khổ trong kiếp hiện tại.

Nếu cuộc đời thực sự chỉ có hạnh phúc thì không cần tu.
Nếu cuộc đời thực sự chỉ có đau khổ thì không cần sống.
Sự thật cuộc đời có hạnh phúc và có khổ đau. "Vui thì ít, khổ thì nhiều, não nhiều mà sự nguy hiểm càng nhiều". Hạnh phúc và khổ đau chỉ là cảm giác (thọ). Nó vô thường sinh diệt.
Hạnh phúc và khổ đau là gánh nặng 2 đầu. Hạnh phúc nhiều bao nhiêu thì khổ đau nhiều bấy nhiêu. Thế gian không ai muốn từ bỏ đầu hạnh phúc cả mà chỉ muốn quẳng đau khổ đi thì đó là điều ảo tưởng nên Đức Phật ngài mới từ bi mà dạy rằng hãy từ bỏ tham ái (tham ái với lạc thọ, sân và si bản chất chỉ là biến thể của tham) thì đầu kia cũng tự động được đặt xuống.
Vấn đề chỉ còn là làm thế nào để đoạn trừ Tham, Sân, Si mà thôi.
Ai đã cảm nhận được khổ hãy tu tập sớm để giảm bớt khổ bao nhiều tốt bấy nhiêu.

KINH NGHIỆM
Một người cho dù có đọc tinh thông các loại kinh điển và nghe thuộc các bài giảng về văn tuệ nhưng không có sự tinh tấn thực hành hàng ngày thì chỉ có lý thuyết và ham lý luận tranh biện chứ không có cách nào nhiếp phục được tham, sân, si.
Lộ trình Văn - Tư - Tu phải cùng song hành.

LY 2 CỰC ĐOAN
Cực đoan 1 (thường kiến): Khổ do mình làm - mình chịu.
Cực đoan 2 (đoạn kiến): Khổ do người khác làm - mình chịu.
2 cực đoan đều dẫn đến hiểu biết sai sự thật: Khổ - nguyên nhân khổ do ngoại cảnh đem đến.
Sự thật: Khổ do duyên xúc - xảy ra nơi tâm. Khổ là cảm giác - nó vô thường sinh diệt. Hiểu biết đúng - hết khổ.
Khổ hay hết khổ chỉ xảy ra trên tấm thân có thức này. Cho dù có đi tìm niềm vui hạnh phúc ở đâu bên ngoài cũng không chỉ vòng quanh khổ chứ không nào hết đươc khổ.
Chúc cả nhà mỗi ngày an lạc!

"Kẻ phàm phu không an trú niệm trên thân,
Còn bậc thánh luôn an trú niệm trên thân".
(Kinh thân hành niệm).

Tất cả đau khổ và hết khổ đều chỉ ở trong tấm thân có thức này. Cho dù có đi tìm ở đâu khác cũng không thể nào mà thấy được.

Tham lam và sân hận sẽ làm cho con người vốn khổ đau lại chất chồng khổ đau.
Chỉ có con đường Bát Chánh Đạo tự thay đổi lộ trình tâm lúc nào thì lúc đó trí tuệ và lòng từ bi sẽ được nuôi dưỡng và nở hoa kết trái.

Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép Tinh tấn ấy là:
1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác phát sinh.
3. Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Mỗi ngày mới hãy làm cho tinh tấn tự động khởi lên.

CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
Trên thế gian nếu có một nhà giáo dục thực sự làm thay đổi thế giới cho nhiều người và trong nhiều thế hệ thì đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Môn học mà ngài dạy trong suốt hơn 45 năm giúp cho con người đi đến mục đích tối thượng là hết khổ - giải thoát là Tứ Diệu Đế (Tứ Thánh Đế) gồm 4 chân lý:
1- Sự thật về khổ (Khổ).
2- Nguyên nhân khổ (Tập).
3- Sự hết khổ - khổ diệt (Diệt).
4- Con đường khổ diệt (Đạo) là con đường Bát Chánh đạo: Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định, Chánh tư duy, Chánh kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.
Còn ngày nay cho dù quốc gia hay dân tộc nào, nhà giáo dục nào có đưa ra môn học hay phương thức nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là đổi từ cái khổ này lấy cái khổ khác mà thôi chứ không thể thoát khỏi khổ.

Hạnh phúc là có thật. Khổ đau cũng là có thật.
Nhưng hạnh phúc và khổ đau chỉ là cảm giác (cảm thọ - thọ).
Con người - kẻ phàm phu chẳng ai phấn đấu nỗ lực để đi tìm khổ đau cả mà chỉ đi tìm hạnh phúc và tham ái hạnh phúc, dính mắc ràng buộc vào hạnh phúc (chấp thủ hạnh phúc là trường tồn, là luôn luôn có, thường xuyên có), cho rằng hạnh phúc nằm trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái nên chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác mà thôi.
Vì sự thật hạnh phúc là thọ (lạc thọ) nên nó vô thường, sinh lên rồi lại diệt nên sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
Bậc thánh thấy và biết mọi thực tại thấy, nghe cảm nhận đều là cảm thọ, do duyên căn - trần tiếp xúc mà phát sinh. Nó vô thường, vô ngã, có vị ngọt (lạc thọ), sự nguy hiểm và sự xuất ly nhờ vậy mà giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ bất kỳ đối tượng nào sinh khởi.

Tất cả thực tại thấy, nghe, cảm nhận đều là cảm giác (cảm thọ- thọ).
Chỉ cần thấy và biết đúng là đủ.

THỰC TẠI KHÔNG PHẢI LÀ THẾ GIỚI
Thế giới vật chất tồn tại độc lập, vận động và biến đổi không ngừng trong từng giây phút. Dòng nước vẫn chảy và đi về đâu theo lộ trình nhân duyên không thể biết trước. Tất cả những gì trong thực tại thấy, nghe, cảm nhận chỉ là cảm giác (thọ) do căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc (xúc) với trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà phát sinh. Xúc sinh thì thọ sinh, xúc diệt thì thọ diệt. Trước khi sinh không ở đâu, sau khi diệt cũng chẳng về đâu. Cũng chẳng có cái nào là chủ nhân chủ sở hữu của cái nào cả. Chỉ có tư tưởng mê lầm là tồn tại làm cho con người ảo tưởng những thực tại đó là thế giới nên mới dính mắc ràng buộc vào nó nên khi nó biến hoại biến diệt thì khổ sẽ khởi lên.
Nếu biết thực hành an chú chánh niệm thì khổ sẽ không có mặt.

Theo kinh điển Pali ghi lại, Pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng được tụng lên có 5 tính chất:
1- Thiết thực hiện tại (không phải cho quá khứ cũng không phải cho tương lai).
2- Không có (không bị chi phối bởi) thời gian.
3- Đến để mà thấy (kiểm chứng được chứ không phải đến để mà tin).
4- Có khả năng hướng thượng (bát chánh đạo).
5- Do người trí tự thân giác hiểu (chứ không phải là người khác thấy hộ).
Người tu khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng chớ vội tin cũng chớ vội bác bỏ. Mà có thể tham khảo những tiêu chí này để thực hành và kiểm chứng.

Đức Phật giác ngộ khác biệt căn bản với ngoại đạo và phàm phu đó là ngài giác ngộ về cảm thọ chứ không phải là thế giới.
Thực tại là tất cả những gì thấy, nghe, cảm nhận đều là cảm thọ. Còn phàm phu thì tưởng đó là thế giới ví như nhìn sợi dây tưởng nhầm con rắn. Vì nhầm lẫn như vậy nên toàn bộ tư duy và hiểu biết là TÂM thấy CẢNH. Do vậy nỗ lực phấn đấu đi thay đổi hoàn cảnh nên chỉ đổi từ khổ này lấy khổ khác chứ không bao giờ bớt khổ và hết khổ được.

Mỗi ngày ai cũng có 24h. Ai không tự biết lo chuyên trú vào việc tu tập và làm ăn nếu còn là cư sĩ thì sẽ bị cuốn vào việc người khác. Cuối cùng không những không giúp được người mà cũng không tự giúp được chính mình.

Mỗi lần chia sẻ pháp cho người cận tử mới thấy người còn khỏe mạnh đã có duyên biết và tu tập giáo pháp giải thoát may mắn như thế nào.
"Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai
Không thể điều đình được
Với đại quân thần chết".

Người đã rõ ràng về pháp học, trong quá trình tu tập sẽ không còn ý niệm tích lũy phước báu và tái sinh. Vị ấy biết rõ: Còn sinh y là còn khổ mà lông tóc dựng ngược, chuyên trú tu tập để vô sinh y.

Không có đúng có sai. Đúng hay sai là so sánh với cái gì.
Cũng như vậy: cầu cúng và cầu mong có một tha lực hay một vị xyz nào đó sẽ giúp cho mình thoát khổ là không đúng cũng không sai.
Nó chỉ không có liên quan gì đến điều mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giác ngộ và thuyết giảng về con đường đi đến giải thoát mà thôi.
Khổ - Nguyên nhân của khổ xảy ra nơi nội tâm.
Sự chấm dứt khổ - Con đường đi đến sự chấm dứt khổ cũng xảy ra nơi nội tâm.
Người có trí tuệ sẽ biết y cứ trên 4 chân lý này mà tự tìm được con đường.

Ai tinh tấn tu hành đều cảm thấy thời gian để tu tập hàng ngày thực sự là rất ít ỏi nên lãng phí thời gian vào những tranh luận vô bổ và những việc làm không mang lại hiệu quả càng nên tránh xa.

Các mỹ từ bay bổng sẽ không đem lại sự lợi lạc trong tiến trình giải thoát.
Chỉ có tinh tấn tu tập lãnh hội pháp học, thực hành pháp hành trên lộ trình Văn - Tư - Tu mang lại pháp thành mới mang lại sự an lạc, giải thoát ngay bây giờ và tại đây trong giây phút hiện tại. Không phải ở trong quá khứ cũng không phải chờ đợi trong tương lai.

Quán sát các lộ trình tâm con người biểu hiện ra bên ngoài dễ thấy rằng ai cũng đều đúng theo cách của mình. Nhưng đối chiếu với sự thật thì lại là chuyện khác.
Vài chia sẻ có thể có ích cho người mới tu.
TU THIỀN ĐỂ LÀM GÌ?
1. Là trở về mặt đất ngay bây giờ và tại đây chứ không phải là lên giời hay ở quá khứ hoặc tương lai.
2. Là để thay đổi hiểu biết về thực tại từ sai sự thật - vô minh thành hiểu biết đúng sự thật - minh chứ không phải là luyện thành thần thông.
3. Là để sống an lạc trong thực tại chứ không phải là ở quá khứ hay tương lai.
4. Là thay đổi tâm chứ không phải là thay đổi hoàn cảnh.
5. Là để sống thích nghi với mọi hoàn cảnh chứ không phải là chán ghét cuộc đời, chạy trốn hoàn cảnh.
6. Là để nương tựa nơi chính mình chứ không phải là cầu cúng hay dựa vào đấng siêu nhiên nào đó.
7. Là để đoạn trừ tư tưởng bản ngã chứ không phải là tô bồi bản ngã.
8. Là để sống yêu thương - từ bi chứ không phải là để ghen ghét, hận thù.
9. Là để trở thành bình đẳng chứ không phải là phân biệt đối xử.
10. Là để an nhiên đón nhận cái chết chứ không phải là tham sống, sợ chết rồi qua đời.
Thiện Dũng 3/2019

VÀI CHIA SẺ CHO NGƯỜI BIẾT CHÚT ÍT VỀ HÓA HỌC TÌM HIỂU PHÁP
Pháp học nói thì rất nhiều vì diễn giải bao nhiêu cũng không hết nhưng thực chất ngắn gọn cũng chỉ trong Tứ Thánh Đến (Tứ Diệu Đế) và Lý duyên khởi (Lý nhân quả). Kinh điển Pali Nykaia có lời Đức Phật tự thán rằng "Ai thấy Lý duyên khởi là thấy pháp".
Ai cũng nói học Phật, tu Phật là tu nhân quả nhưng số người hiểu đúng về Nhân quả thì lại quá ít ỏi. Hầu hết hiểu: một nhân sinh quả, nhân biến đổi thành quả, không có lửa làm sao có khói, đời cha ăn mặn thì đời con khát nước, ở hiền thì sẽ gặp lành, ...
Sự thật duyên khởi hay Nhân quả là gì?
Hãy khảo sát qua ví dụ sau đây:
Có 1 chậu nước trong và 1gói thuốc nhuộm đỏ. Nếu cứ đặt cạnh nhau như vậy thì bao lâu cũng không có chậu thuốc nhuộm đỏ.
Chỉ khi cho gói thuốc nhuộm đỏ hòa vào chậu nước mới phát sinh chậu thuốc nhuộm đỏ. Khi ấy gói thuốc nhuộm đỏ và chậu nước trong cùng diệt.
Có 1 chiếc áo trắng để cạnh chậu thuốc nhuộm đỏ thì dù để bao lâu cũng không có chiếc áo nhuộm đỏ. Khi cho chiếc áo trắng vào chậu thuốc nhuộm đỏ thì cả chiếc áo trắng và chậu thuốc nhuộm đỏ cùng diệt phát sinh chiếc áo đỏ và chậu thuốc nhuộm đỏ mới màu nhạt hơn.
Quan hệ nhân quả ở đây là 2 nhân tiếp xúc với nhau cùng diệt mới phát sinh ra quả mới.
Hai duyên Căn - Trần tiếp xúc xúc sinh thì cảm giác (thọ) sinh. Xúc diệt thì thọ diệt. Thập nhị nhân duyên mới mô tả là "Do có Xúc mà có Thọ".
Để hiểu kỹ hơn quý vị có nhân duyên có thể tham dự khóa tu 10 ngày theo thông tin tại batchanhdao.vn.
Cư sĩ Thiện Dũng (Trần Văn Dũng)
Khu rừng Sừng bò.

VÀI CHIA SẺ CHO NGƯỜI BIẾT CHÚT ÍT VỀ TIN HỌC TÌM HIỂU PHÁP
Trong cuộc sống từ lời nói, hành động, ăn uống chỉ cần luôn nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác (thọ) xảy ra trên thân, không bị cuốn mình theo đối tượng thì sẽ không bao giờ có những lời nói, hành động không đúng và sẽ không có phiền não.
Khi Căn (Nhãn căn, nhĩ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn hay nói gọn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc Trần cảnh (hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc, pháp) như hành vi gõ bàn phím hay quét hình ảnh hay nói vào mic, ... phát sinh tín hiệu và đồng thời bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM) sẽ ghi nhận tín hiệu đó đưa vào máy tính để tìm kiếm.
Niệm là một tâm hành như thuật toán Google hành vi của niệm có đặc điểm kích hoạt tư duy (chip) tìm kiếm thông tin nổi trội. Tùy thuộc vào hành vi của niệm và nội dung của niệm và kho chứa (ổ cứng hay bộ nhớ, máy chủ, vô minh hay minh được ghi và lưu trữ lại) được kích hoạt mà thông tin nào sẽ được tìm kiếm.
Tư duy là một tâm hành có nhiệm vụ phân tích, so sánh, đối chiếu và trả về kết quả. Kết quả nào nổi trội (được tìm kiếm nhiều nhất sẽ hiện lên trên cùng), kết quả là loại thông tin được phân biệt (ý thức) văn bản, hình ảnh hay video, audio, ... sẽ được hiển thị. Nếu thông tin không tồn tại sẽ không tìm kiếm được.
Có 2 loại niệm:
Tà niệm kích hoạt thông tin trong kho chứa Vô minh.
Còn tà niệm kích hoạt thì lộ trình tâm đi trên Bát tà đạo sẽ có tà niệm, tà tư duy, tà tri kiến, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng sẽ, có tham, sân, si phát sinh sầu, bi, khổ, ưu não, luân hồi sinh tử.
Chánh niệm kích hoạt thông tin kho chứa Minh.
Tu là để làm thế nào để chánh niệm liên tục khởi lên lộ trình tâm sẽ đi trên Bát chánh đạo sẽ có chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh tư duy, chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Trên lộ trình tâm Bát chánh đạo không có tham, sân, si không có sầu bi, khổ, ưu não không có luân hồi sinh tử. Đó là con đường khổ diệt - niết bàn với không giải thoát (tâm giải thoát), vô tướng giải thoát (tuệ giải thoát), vô tác giải thoát.
Để hiểu rõ hơn quý vị có duyên có trí có thể tham gia khóa tu 10 ngày theo dõi tại batchanhdao.vn
Cư sĩ Thiện Dũng Khu rừng Sừng bò.

VÀI CHIA SẺ MỞ ĐẦU CHO NGƯỜI BIẾT CHÚT ÍT VỀ VẬT LÝ TÌM HIỂU PHÁP
Thế gian - Phàm phu hiểu biết: Tâm thấy cảnh
Khổ do hoàn cảnh. Muốn hết khổ phải thay đổi hoàn cảnh.
Đức Phật - Bậc thánh hiểu biết: Tâm thấy tâm.
Khổ xảy ra nơi tâm. Muốn hết khổ phải thay đổi tâm.
Sự diễn tả về ngôn ngữ về pháp mà Đức thế tôn khéo thuyết giảng thật không dễ dàng. Có thể mô tả sự 6 xúc xứ (Ví dụ về Nhãn căn) một cách thô như sau: Phàm phu mắt nhìn thấy bông hoa. Tôi thấy bông hoa. Cái thấy là tâm, đối tượng được thấy là trần cảnh.
"Cơ chế hoạt động của mắt
Để hiểu một cách đơn giản, cơ chế hoạt động của mắt tương tự như cơ chế hoạt động của máy chụp ảnh. Để chụp được ảnh, ánh sáng phản xạ từ vật được khúc xạ qua hệ thống thấu kính và hội tụ tại phim, qua quá trình rửa hình sẽ cho ta các bức ảnh. Mắt có hệ thấu kính thuộc bán phần trước nhãn cầu bao gồm giác mạc, đồng tử, thủy tinh thể. Ánh sáng vào mắt sau khi được khúc xạ qua giác mạc và thủy tinh thể sẽ hội tụ trên võng mạc của mắt. Tại đây tín hiệu ánh sáng sẽ được các tế bào cảm thụ ánh sáng trên võng mạc chuyển thành tín hiệu thần kinh. Sau đó, tín hiệu đó được truyền đến não thông qua hệ thần kinh thị giác và được xác nhận là hình ảnh tại não bộ. Đây chính là cơ chế hoạt động của mắt để bạn nhìn thấy một vật nào đó.
Sự thật: Mắt (nhãn căn) không thấy được bông hoa. Bông hoa là có thật. Bông hoa thật là một nhân (Trần), nhãn căn (căn bản - tế bào thần kinh thị giác). Khi mắt tiếp xúc bông hoa, hình ảnh được thu qua thủy tinh thể là một thấu kính quang học lên võng mạc (máy ảnh/camera). Tại đó các tế bào thần kinh thị giác chỉ làm nhiệm vụ ghi nhận cảm giác hình ảnh và truyền tín hiệu về não bộ đọc, tại đó mới đọc và phân tích và cho biết kết quả về đối tượng. Mắt nhìn liên tục, chớp liên tục là ghi/quay hình ảnh liên tục theo xung chứ không phải chỉ là 1 lần duy nhất, nháy đi nháy lại nhiều lần.
Tùy thuộc mắt bình thường hay cận thị, viễn thị hay dị tật điểm vàng, hay mù màu, ... mà cảm giác về hình ảnh bông hoa sẽ khác nhau.
Tùy thuộc vào ánh sáng và khoảng cách khác nhau và thời điểm khác nhau mà cảm giác hình ảnh cũng khác nhau.
Như vậy vẫn là đối tượng bông hoa nhưng tùy thuộc vào điều kiện khác nhau mà cho cảm giác hình ảnh khác nhau.
Như vậy: Cái biết là tâm, đối tượng được biết là cảm giác hình ảnh (thọ) chính là thực tại cũng là tâm.
Thực tại là tất cả những gì thấy nghe, cảm nhận đối tượng đều là các cảm giác do Căn-Trần tiếp xúc mà phát sinh (Xúc sinh thì cảm giác sinh). Không tiếp xúc thì không phát sinh (Xúc diệt thì cảm giác diệt).
Do hiểu biết mê lầm của thế gian là tâm thấy cảnh nên 2 người khác nhau cãi lộn nhau bất tận vì mỗi người cảm nhận đối tượng theo cách khác nên có sự hiểu biết khác nhau (như truyện thầy bói xem voi).
Đức Phật giác ngộ là giác ngộ về tâm chứ không phải giác ngộ về thế giới. Như trong bản kinh Phạm Võng - Bản kinh số 1trong Trường bộ kinh. Sau khi bác bỏ 62 tà kiến, về sự tán thán đối với tiểu giới, trung giới và đại giới chỉ là phàm phu tán thán Như lai, ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần về lời tuyên bố sự giác ngộ của ngài "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt (sinh diệt) của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ".
Quý vị có nhân duyên muốn tìm hiểu sâu hơn giáo lý của Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng có thể thâm nhập sâu hơn vào khóa tu 10 ngày tại batchanhdao.vn.


SỰ THẬT TRÁI NGƯỢC KHÓ CHẤP NHẬN
Cả thế gian trong đó có cả nhiều người tu đang ca ngợi hạnh phúc, cổ vũ cho hạnh phúc, tìm mọi cách để đạt được hạnh phúc, có được hạnh phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần như "dục ái, hữu ái và phi hữu ái".
Còn Đức Phật thì không.

VÀI CHIA SẺ CHO NGƯỜI BIẾT CHÚT ÍT VỀ TOÁN TÌM HIỂU PHÁP
Pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng dùng ngôn từ nào diễn tả đều rất khó. Chia sẻ sau đây cho người có chút hiểu biết Toán học. Đây chỉ là vài gợi ý.
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc giác ngộ (phát hiện) và thuyết giảng hơn 45 năm có thể diễn tả sơ bộ như sau:
Tiên đề 1 (phát hiện 1): Mục đích cuộc sống là thoát khổ (khổ diệt).
Tiên đề 2 (phát hiện 2): có 4 sự thật chia làm 2 thực tại (Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu Đế).
Thực tại 1 (mệnh đề 1): Khổ đế và Tập đế
Là lộ trình tâm phàm phu - Lộ trình tâm thế gian - (Kho chứa Vô minh).
Thực tại 2 (Mệnh đề 2): Diệt đế (khỏi diệt - miết bàn) và Đạo đế - Bát chánh đạo
Là lộ trình tâm bậc thánh - Lộ trình tâm xuất thế gian - (Kho chứa Minh).
Để khảo sát chứng minh 2 thực tại trên cần sử dụng: Lý duyên khởi hay Định luật Duyên khởi (Định luật nhân quả) từ 6 xúc xứ phát sinh đồng thời cảm giác(thọ)- tưởng (cái biết trực tiếp). Do đặc điểm của niệm mà duyên khởi 2 lộ trình Kinh pháp cú gọi là Con đường 2 ngả).
1. Duyên khởi lộ trình tâm Bát tà đạo (12 nhân duyên) có Tà niệm, Tà tư duy, Tà tri kiến [tham, sân, si -dục], Tà định, Tà tinh tấn, [không như thật - phi như lý tác ý], Tà ngữ/Tà nghiệp/Tà mạng đi đến [Sầu bi, khổ, ưu não]- [luân hồi tái sinh].
2. Duyên khởi lộ trình tâm Bát chánh đạo có Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định [Tỉnh giác- Không giải thoát], Chánh tư duy, Chánh kiến [Vô tướng giải thoát], Như thật (như lý) tác ý, Chánh ngữ/Chánh nghiệp/Chánh mạng [Vô tác giải thoát] vắng mặt khổ, không có luân hồi tái sinh.
Sau khi đã khảo sát và hiểu biết và tư duy đúng (Văn tuệ-Tư tuệ) về Lý thuyết -Pháp học là Tứ thánh đế và Lý duyên khởi.
Thực hành để thân chứng lý thuyết (Tu tuệ) để đi đúng, đi nhanh trên Bát chánh đạo đến đích hết khổ hay vắng mặt khổ hay sử dụng các phương tiện (các bổ đề) đó là:
1. Tứ Niệm xứ (Pháp hành- phương pháp thực hành) làm thế nào để cho Chánh niệm khởi lên liên tục là lộ trình tâm Bát Chánh sẽ tự động khởi lên.
Các tiêu chuẩn, điều kiện kiểm chứng con đường và đích đến:
2. Tứ chánh cần (4 yếu tố quan trọng để lộ trình tâm luôn ở trên Bát chánh đạo)
3. Tứ như ý túc -Tứ thần túc (4 yếu tố cần thực hành cho viên mãn)
4. Ngũ căn (5 yếu tố căn bản đi đến giải thoát)
5. Ngũ lực (5 năng lực căn bản đi đến giải thoát)
6. Thất giác chi (7 tiêu chuẩn bậc giải thoát).
Để tự mình hiểu rõ và thân chứng các nội dung trên quý vị có nhân duyên có thể tham dự khóa tu Bát chánh đạo 10 ngày. Thông tin đăng tải trên website batchanhdao.vn.
Cư sĩ Trần Văn Dũng (Thiện Dũng)


THAM KHẢO THÊM VỀ TU CÁI NÀO LÀ GỐC
NGƯỜI CÓ TRÍ TRÚ GIỚI ( NIỆM ĐỊNH TUỆ HAY GIỚI ĐỊNH TUỆ )
Trí ở đây được hiểu là từ gọi tắt của Trí Tuệ, đồng nghĩa với Minh, đồng nghĩa với Chánh Kiến, là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT các sự vật hiện tượng ( các pháp ), còn gọi là LIỄU TRI các pháp, đặc biệt là Khổ với 4 khía cạnh : Sự thật Khổ, Sự thật tập khởi Khổ, Sự thật Khổ Diệt, Sự thật Con Đường Khổ Diệt. Trí Tuệ có 3 cấp độ : Trí tuệ đạt được do Nghe, Đọc gọi là Văn Tuệ, Trí Tuệ đạt được do Tư Duy về điều đã nghe, đọc gọi là Tư Tuệ, Trí Tuệ đạt được do thực hành Bát Chánh Đạo gọi là Tu Tuệ. Tuy có 3 loại Tuệ như vậy nhưng nội dung của ba loại Tuệ thì giống nhau.

CHUYỆN CẦU CÚNG -HIỂU BIẾT ĐÚNG THÌ SỐNG ĐÚNG
Từ lâu nay vốn không can dự cũng không bàn luận về chính trị và tôn giáo, nhưng nhiều người liên tục được hỏi nên phải trả lời theo đúng sự hiểu biết riêng của mình: Cầu cúng, dâng sao giải hạn, đốt vàng mã, lễ bái có phải là của Đạo Phật không?
Câu trả lời là: Có - đó là của Đạo Phật Tôn Giáo. Nó được phát sinh từ đời sau và có sự kế thừa, pha trộn của nhiều thứ. Đó là liều thuốc giảm đau, có tác dụng nhất định cho người thế gian trong một thời điểm nào đó, chứ không phải là thuốc chữa bệnh Khổ, bệnh Tham. Trong một vài trường hợp cũng là phương tiện để gieo duyên cho người biết đến chánh pháp. Bản thân tôi tôn trọng và không bài trừ hay bác bỏ vì cũng không có ai điều khiển được. Nó sẽ tự sinh, tự diệt theo thời gian với mức độ khác nhau. Chánh yếu thì tà mạnh, chánh mạnh thì tà sẽ yếu.
Còn Đạo Phật Thật do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ và thuyết giảng cách đây 2600 năm nói ngắn gọn là về 4 sự thật hay gọi là 4 chân lý của Bậc thánh - Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo). Tu là thay đổi tâm chứ không phải là thay đổi hoàn cảnh, là tự bản thân thực hành Bát Chánh Đạo chứ không phải là cầu cứu một tha lực nào đó bên ngoài. Tu là để giảm tham, sân, si tiến đến đoạn trừ tham sân, si chứ không phải làm tăng trưởng tham, sân, si. Còn tham, sân, si là còn khổ. Đức Phật chỉ là người đã tìm ra con đường thoát khổ và ngài chỉ dạy cho người sau, còn có nghe và thực hành theo hay không là việc của người khác. Ngài không có ban phúc cũng không giáng họa cho bất kỳ ai.
Do vậy một lần nữa những người tu hành chân chính đang hành trì con đường trung đạo cần khẳng định: những hành động trên không phải là Đạo Phật Thật. Người có trí sẽ tự thấy, tự biết và tự quyết định lựa chọn lối sống cho riêng mình. Chúng ta nên tôn trọng sự lựa chọn của mỗi người.

Tiếp tục giao lưu chia sẻ kinh nghiệm về sự thực hành và chia sẻ pháp.
Một vị đang đi đường bỗng nhiên dẫm vào một cái gai cắm vào chân làm chảy máu.
1. Do nhân nào duyên nào vị ấy khởi lên khổ?
2. Do nhân nào duyên nào vị ấy không khởi lên khổ?
Lộ trình tâm thật xảy ra ra sao?
(Khuyến nghị các pháp đàm trong chánh ngữ để cùng nhau sách tấn tu tập và không có ý cao thấp hơn thua. 

Câu hỏi về thực hành:
Một vị nào đó khi đọc một chia sẻ nào đó liền nổi sân lên và bình luận phản ứng dữ dội với những lời lẽ mắng chửi không thương tiếc.
1. Lộ trình tâm thật vị ấy diễn ra ra sao?
2. Nếu một vị cũng đọc một chia sẻ như vậy nhưng tâm không có phản ứng yêu thích hay chán ghét. Lộ trình tâm thật xảy ra ra sao?


Ai nói các pháp vô thường là khổ người đó chưa thấy pháp ngộ pháp.

CĂN BẢN CỐT LÕI
Người tu - tu gì thì tu, sáng tạo hay dùng pháp môn nào thì dùng nhưng không có Văn - Tư - Tu về Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo - Bát chánh Đạo) trên Lý Duyên khởi thì con đường tu tập đi đến an lạc, giải thoát sẽ còn rất xa mờ. Đi đúng thì có kết quả ngay lập tức trong hiện tại chứ không phải tương lai hay ở kiếp sau.

TÂM SÂN
Sân là chán ghét cảm khác khó chịu - khổ thọ. Sân thực chất là biến thể của Tham - thích thú cảm giác dễ chịu - lạc thọ.
Người tu thường thấy biểu hiện tâm sân trên Facebook qua những status khó chịu với ngoại cảnh - những sự kiện, phát ngôn, bình luận trái với tâm ý của mình. Tham, sân si là nguyên nhân của khổ đau, phiền não, luân hồi tái sinh.
Biểu hiện tâm sân cũng rất vi tế đòi hỏi người tu phải luôn ở trong chánh niệm mới quan sát được. Chỉ cần biết cách tạo nhân duyên cho chánh niệm khởi lên là lộ trình tâ sẽ tự động khởi lên Bát chánh đạo không cần làm gì thêm thì an lạc sẽ ngay lập tức có mặt.

GIÁ TRỊ CỦA SỰ TINH TẤN
Một người tu có sự tinh tấn sẽ luôn tích cực trong sự thực hành và trau dồi văn tuệ.
Với cư sĩ tại gia việc tinh tấn làm cho vị ấy có thể sắp xếp mọi việc để vừa cân bằng được cuộc sống mà vẫn có thời gian để tu tập.
Cho dù có làm bao nhiêu việc đi chăng nữa cũng không quên giải thoát là mục đích cuối cùng.

Nếu chưa thể sống thích nghi trong mọi hoàn cảnh và bình thản đón nhận mọi sự việc xảy ra thì đạo lực một người tu vẫn còn rất yếu.
Cần rất tinh tấn!

Tham, sân, si hay nói gọn Tham ái là nguyên nhân của khổ.
Người tu chỉ cần biết cách làm thế nào để giảm bớt và tiến đến đoạn trừ Tham ái là xong.
Suốt cuộc đời Đức Phật giác ngộ và thuyết giảng cũng chỉ có như vậy.

Người tu hành nhất là cư sĩ tại gia còn vướng gia đình và công việc nên có rất ít thời gian để thực hành. Do vậy hãy tập trung dành toàn bộ thời gian có ích để tập trung vào việc tu tập thay vì tham gia vào những tranh luận vô bổ.
Việc đàm luận pháp học để làm sâu sắc thêm Văn tuệ nếu có thì cũng trên cơ sở pháp đàm cởi mở và ngắn gọn.

TU LÀ GÌ VÀ TU ĐỂ LÀM GÌ?
Tu là lộ trình làm thay đổi sự hiểu biết từ tà tri kiến - VÔ MINH- hiểu biết không đúng sự thật SANG chánh kiến - MINH- hiểu biết đúng sự thật. Hiểu biết như thế nào thì sẽ sống như vậy.
Hoa trái của sự tu tập là từng bước giảm trừ được tham, sân, si và tiến đến đoạn trừ hoàn toàn tham, sân, si trong đó THAM là căn bản của KHỔ và do vậy mà phiền não -KHỔ giảm dần và tiến đến phiền não được đoạn diệt hoàn toàn.

QUÁN SÁT LỘ TRÌNH TÂM (mức độ thô)
Người mới tu vì tâm vẫn là phàm phu nên thường qua các giai đoạn: đầu tiên không tin điều gì và cũng không thích việc tu tập. Sau đó bắt đầu học pháp và thực hành và có niềm tin ban đầu. Khi có chút thành tựu bắt đầu quay lại thấy những sai lầm của mình và những người xung quanh khi chưa tu và bất kỳ người tu nào khác với cách mình tu và thường phán xét. Đến khi tu thực sự có thành tựu rồi thì tham, sân, si và bản ngã được giảm trừ đi rất nhiều vị ấy thấy và biết rõ thực tại chỉ là các cảm thọ do duyên căn trần tiếp xúc mà phát sinh, nó vô thường, vô chủ, có vị ngọt (lạc thọ) sự nguy hiểm nếu dính mắc vào các đối tượng. Vì biết rõ nguy hiểm như hòn than lửa đỏ nên sẽ không dính mắc ràng buộc vào đối tượng. Do không dính mắc nên không phiền não, sẽ xuất lý khỏi đối tượng và được giải hoàn toàn không có chấp thủ.

HAI ĐIỀU RẤT KHÓ LÃNH HỘI
"Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!"
Trung bộ Kinh Nykaia, 85. KINH VƯƠNG TỬ BỒ ÐỀ - Bodhirajàkumàra Sutta)

HAI ĐIỀU RẤT KHÓ LĨNH HỘI LÀ LÝ DUYÊN KHỞI VÀ NIẾT BÀN

VỊ NÀO ĐOẠN TRỪ ĐƯỢC THÂN KIẾN, NGHI, GIỚI CẤM THỦ LÀ BẬC DỰ LƯU.
Việc tiếp theo chỉ còn là rốt ráo tu tập để đoạn trừ tham, sân, si.

CON ĐƯỜNG 2 NGẢ
"Đường này đến thế gian
Đường kia đến Niết bàn
Tỳ kheo đệ tử Phật
Phải ý thức rõ ràng
Đừng đắm say thế lợi
Hãy tu hạnh ly tham".
(Pháp cú 75)
Quyết định đi đường nào "Niệm là người đánh xe".
(Cỗ xe thù thắng, Tương ưng bộ kinh Pali Nykaia).

Cảm thọ - lạnh, hãy niệm thọ thọ để tạo nhân duyên cho chánh niệm về thọ được khởi lên. Khi ấy chỉ cần nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác trên thân, lộ trình tâm bát chánh đạo sẽ tự động khởi lên. Cái biết chánh kiến như thật đây là cảm thọ do duyên thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát sinh, nó vô thường vô chủ, vô sở hữu. Khi ấy sẽ có thái độ không yêu thích cũng không chán ghét, không nắm giữ cũng không xua đuổi. Độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy.
Cho dù là vị alahan trong 18 lộ trình vẫn còn 1 khổ dư sót là khổ thọ trên thân nhưng khổ khổ không còn - khổ diệt.
Hãy cùng nhau luyện tập để chứng, trú và sống với thực tại chỉ toàn là thọ cả mà thôi.

DỤC
Dục như hố than hừng.
Dục như cây sai trái.
Dục như miếng thịt sống.
Dục như khúc xương không.
Dục như đầu rắn hổ mang.
Dục như bó đuốc rơm đi ngược gió.
Ái dục là nguyên nhân của khổ.
"Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng sinh sợ hãi
Đốn rừng đốn ái dục
Tỷ kheo được tịch tịnh"
Pháp cú 283.
Hãy tinh tấn tu tập để ái dục dần được đoạn trừ.

HÀNH CHÂN CHÍNH - CHÁNH NGHIỆP
Một người tu hành chân chính thực hành chánh niệm, lộ trình tâm đi trên bát chánh đạo sẽ không chỉ trích hay chê bai người không tu hay tu hành không chân chính. Vị ấy với cái biết chánh kiến các pháp là vô ngã - vô chủ, vô sở hữu không thể điều khiển. Duyên nghiệp của ai nó tự vận hành tự nhiên theo duyên khởi.
Nếu gặp người có duyên có chí hỏi pháp sẽ chia sẻ pháp. Còn họ có nghe và thực hành theo hay không cũng không bị dính mắc rằng buộc.

MINH VÀ VÔ MINH
Vô minh: hiểu biết không đúng sự thật.
Thực tại là thế giới.
Minh: hiểu biết đúng sự thật.
Thực tại là cảm thọ.

PHÁP MÀ ĐỨC THẾ TÔN KHÉO THUYẾT GIẢNG CÓ TÍNH CHẤT:
1. Thiết thực hiện tại.
2. Đến để mà thấy.
3. Không bị chi phối bởi thời gian.
4. Có tính chất hướng thượng.
5. Cho người trí tự mình giác ngộ.